TÌNH HÌNH KINH TẾ
Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Trong tháng bà con nông dân các địa phương tập trung gieo cấy lúa mùa, trồng nốt một số loại rau màu có khung thời vụ muộn và chăm sóc cây trồng vụ Mùa. Chăn nuôi có nhiều thuận lợi, giá lợn hơi xuất chuồng có xu hướng tăng khá; song do giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao nên người chăn nuôi chưa thật sự yên tâm tái đàn và mở rộng quy mô. Công tác phòng, chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi được chú trọng triển khai thực hiện.
Nông nghiệp
Trồng trọt
Gieo cấy lúa vụ mùa: Theo tiến độ của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tính đến ngày 20/7/2023 toàn tỉnh đã gieo cấy được 72.380 ha lúa Mùa, đạt 95% kế hoạch đề ra. Hiện trà lúa đã gieo cấy phát triển tương đối tốt, tuy nhiên trong tháng thời tiết nắng nóng kéo dài và diễn biến phức tạp, vì vậy các địa phương cần chủ động thường xuyên theo dõi đồng ruộng, tích cực chăm sóc, bảo vệ lúa mùa, phòng chống sâu bệnh và các nhân tố khác ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây lúa.
Gieo trồng rau màu: Diện tích cây màu hè đã thu hoạch 9.840 ha chiếm 91% diện tích cây màu hè đã trồng. Diện tích cây màu hè thu đã trồng 5.418 ha đạt 60% kế hoạch đề ra cao hơn 3,8% so với cùng kỳ năm 2022.
Chăn nuôi
Trong tháng, sản xuất chăn nuôi khá ổn định, chăn nuôi lợn hiện đang khôi phục, tuy nhiên vẫn còn gặp nhiều khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao, giá bán sản phẩm biến động bất thường, dịch bệnh mặc dù đã được kiểm soát chặt chẽ song vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ.
Chăn nuôi gia súc: Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng tính chung 7 tháng năm 2023 ước đạt 6.019 tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ.
Chăn nuôi lợn: Giá thịt lợn hơi trung bình dao động từ 60.000 đến 65.000 đồng/kg tùy theo từng loại lợn; nhiều hộ nông dân có nhu cầu tái đàn nhưng do giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao, vì vậy việc tái đàn tại các địa phương trong tỉnh vẫn còn hạn chế. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 7 tháng năm 2023 ước đạt 88,6 nghìn tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Chăn nuôi gia cầm: Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 7 tháng năm 2023 ước đạt 32,5 nghìn tấn, tăng 1,2%; trong đó sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng ước đạt 24,3 nghìn tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ. Sản lượng trứng gia cầm các loại 7 tháng năm 2023 ước đạt 194,5 triệu quả, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước; trong đó sản lượng trứng gà ước đạt 111,1 triệu quả, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước.
Lâm nghiệp
Trong tháng chưa có diện tích rừng trồng mới được bổ sung. Bảy tháng năm 2023 đã trồng mới được 8,3 ha rừng, tăng 20,3% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 1.318 m3, tăng 1,6%; sản lượng củi khai thác ước đạt 4.817 ste, tăng 1,1%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 1.179 nghìn cây, giảm 1,8% so với cùng kỳ.
Thuỷ sản
Tình hình khai thác và nuôi trồng thủy sản trong tháng khá ổn định. Tổng sản lượng thủy sản 7 tháng năm 2023 tổng sản lượng thủy sản ước đạt 156,1 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ.
Khai thác: Sản lượng khai thác 7 tháng năm 2023 ước đạt 61,3 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 39 nghìn tấn, tăng 2,5%; tôm đạt 0,9 nghìn tấn, tăng 2,5%; thủy sản khác đạt 21,4 nghìn tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ.
Nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng thủy sản 7 tháng năm 2023 ước đạt 94,8 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 24,3 nghìn tấn, tăng 2,3%; tôm đạt 2 nghìn tấn, tăng 2,8%; thủy sản khác đạt 68,5 nghìn tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ.
Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP)
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tỉnh Thái Bình tháng 7/2023 tăng 3,4% so tháng trước, tăng 14,2% so cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành Khai khoáng giảm 1,8% so với tháng trước, Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,9%, Sản xuất và phân phối điện giảm 7,2 %.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng năm 2023 tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó Khai khoáng giảm 23,2%, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,6%, sản xuất và phân phối điện tăng 82,4%, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải nước thải tăng 4,2%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tháng 7/2023 có tốc độ tăng cao so với tháng trước như Nitơrat Amoni (+215,6%); Sắt thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác (+57,5%); Loa đã hoặc chưa lắp vào hộp loa (+33,1%); Điện thương phẩm (+11,8%);... Tuy nhiên trong tháng 7/2023 một số sản phẩm giảm như: Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket đạt 88,8%; Gạch xây bằng đất nung đạt 90,3%; Tai nghe khác đạt 76,7; Điện sản xuất đạt 90,9%;
Ước chung 7 tháng 2023, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ như: Sắt thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác (+110,8%); Thép cán (+83,3%); Tai nghe khác (+137,6%); điện sản xuất (+94,5%); Khăn mặt, khăn tắm và khăn khác dùng trong phòng (+18,6%)... Tuy nhiên một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket đạt 99,6%; Cấu kiện nhà slắp sẵn bằng kim loại đạt 91,2%; Loa đã hoặc chưa lắp vào hộp loa đạt 75,1%; Khí tự nhiên dạng khí đạt 71,8%...
Chỉ số tiêu thụ: Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 7/2023 tăng 3,4% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2023, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,7% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm 2022 giảm 2,5%).
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/7/2023 tăng 7,2% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 17,5% so với cùng thời điểm năm trước.
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/7/2023 tăng 1,5% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 0,1% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó: Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 100% và giảm 0,6%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,9% và giảm 1,8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,2% và tăng 1,7%.
Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước tháng 7/2023 ước đạt 718 tỷ đồng, tăng 6,2% so tháng trước và tăng 15,4% so cùng kỳ năm 2022. Vốn Ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 298 tỷ đồng, tăng 3,4% so tháng trước và tăng 1,8% so cùng kỳ; trong đó vốn cân đối ngân sách tỉnh ước đạt 143 tỷ đồng, đạt 77,4% so cùng kỳ; vốn ngân sách huyện ước đạt 292 tỷ đồng, tăng 23,4% so cùng kỳ; vốn ngân sách cấp xã ước đạt 128 tỷ đồng, tăng 37,4% so cùng kỳ.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 7 tháng năm 2023 ước đạt 4.031 tỷ đồng, tăng 28,0% so cùng kỳ. Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước đạt 1.667 tỷ đồng, tăng 5,9%; trong đó vốn cân đối ngân sách tỉnh ước đạt 801 tỷ đồng, đạt 80%; vốn ngân sách Nhà nước huyện ước đạt 1.608 tỷ đồng, tăng 47,6%so cùng kỳ; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã ước đạt 756 tỷ đồng, tăng 56,1% so cùng kỳ.
Một số dự án đầu tư khởi công mới trong tháng 7/2023
Dự án xây dựng hạ tầng khu TĐC xã Thụy Liên huyện Thái Thụy, vốn đầu tư 22,7 tỷ đồng, dự kiến tháng 7 đạt 3,7 tỷ đồng; Dự án xây dựng xây dựng cầu cơ giới (Km0+960) trên đường huyện ĐH98 huyện Thái Thụy, vốn đầu tư 14,7 tỷ đồng, dự kiến tháng 7 đạt 2 tỷ đồng; Dự án Xử lý cấp bách kè bảo vệ phía sông đê Hữu Hóa đoạn từ Km20+165 đến Km20+575 thuộc địa phận xã Thụy Hưng và đoạn từ Km24+840 đến Km25+330 thuộc địa phận xã Thụy Việt, xã Thụy Quỳnh huyện Thái Thụy, vốn đầu tư 9,5 tỷ đồng, dự kiến tháng 7 đạt 1,7 tỷ đồng; Dự án xây dựng hạ tầng tổ dân phố Mai Diêm, thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, vốn đầu tư 2,5 tỷ đồng, dự kiến tháng 7 đạt 650 triệu đồng; Dự án xây dựng Nhà văn hóa kiểu mẫu tổ dân phố Mai Diêm, thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, vốn đầu tư 4,3 tỷ đồng, dự kiến tháng 7 đạt 950 triệu đồng; Dự án cải tạo và nâng cấp tuyến đường Bùi Quang Thận đoạn từ nút đường Nguyễn Đức Cảnh đến nút đường Phạm Ngũ Lão thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, vốn đầu tư 14,5 tỷ đồng, dự kiến tháng 7 đạt 1,3 tỷ đồng;
Dự án xây dựng trạm bơm tưới khu vực Đồng Vối xã Vũ Lăng, huyện Tiền Hải, vốn đầu tư 1,9 tỷ đồng, dự kiến tháng 7 đạt 350 triệu đồng; Dự án nạo vét khẩn cấp tuyến sông từ cầu ông La đến cầu mới Cánh chè ngoài thôn Nghĩa xã Vũ Lăng, huyện Tiền Hải, vốn đầu tư 1,5 tỷ đồng, dự kiến tháng 7 đạt 30 triệu đồng;
Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật xã Vũ Trung huyện Kiến Xương, vốn đầu tư 45,8 tỷ đồng, dự kiến tháng 7 đạt 2,2 tỷ đồng;
Dự án xây dựng nhà văn hóa xã Phúc Thành, huyện Vũ Thư, vốn đầu tư 11,7 tỷ đồng, dự kiến tháng 7 đạt 760 triệu đồng; Dự án xây dựng nhà văn hóa thôn Phù Sa, xã Tự Tân, huyện Vũ Thư, vốn đầu tư 1,1 tỷ đồng, dự kiến tháng 7 đạt 230 triệu đồng.
Tình hình đăng ký kinh doanh
Tính đến đầu tháng 7/2023 đã cấp 636 giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký đạt 6.923 tỷ đồng. Xác nhận Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 382 doanh nghiệp. Doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là 71 doanh nghiệp, trong đó thu hồi GCN ĐKKD do DN giải thể là 71 doanh nghiệp.
Trong tháng 7/2023 cấp phép mới 01 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 5.000 nghìn USD; Tính chung 7 tháng có 09 dự án được cấp phép mới với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 66.650 nghìn USD.
Thương mại, dịch vụ và giá cả
Thị trường hàng hóa và giá cả trong tháng tương đối ổn định, riêng thịt lợn hơi từ cuối tháng 6 đến nay giá tăng cao trên 10% so với tháng trước đẩy giá thịt lợn thành phẩm tăng, góp phần làm tăng nhóm lương thực, thực phẩm so với tháng trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7/2023 ước đạt 5.598 tỷ đồng, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 18,2% so với cùng kỳ. Trong đó: Bán lẻ hàng hóa đạt 4.900 tỷ đồng, tăng 0,6% và tăng 17,6%; dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 387 tỷ đồng, giảm 1,8% và tăng 27,3%; du lịch lữ hành đạt 19 tỷ đồng, tăng 26,5% và tăng 2,2 lần; dịch vụ khác đạt 292 tỷ đồng, giảm 0,6% và tăng 13,2%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng năm 2023 ước đạt 39.263 tỷ đồng, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ngành kinh tế, doanh thu bán lẻ hàng hóa 7 tháng năm 2023 ước đạt 34.399 tỷ đồng, chiếm 87,6% tổng mức và tăng 16,9% so với cùng kỳ. Riêng nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm giảm 10,6%; các nhóm hàng còn lại đều tăng so với cùng kỳ như: Nhóm lương thực, thực phẩm đạt 11.236 tỷ đồng, tăng 17,6%; nhóm xăng dầu các loại đạt 6.079 tỷ đồng, tăng 11,6%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng đạt 5.685 tỷ đồng, tăng 26,1%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình đạt 3.934 tỷ đồng, tăng 9,2%; nhóm phương tiện đi lại đạt 1.952 tỷ đồng, tăng 33%; nhóm hàng may mặc 1.412 tỷ đồng, tăng 17,6%; nhóm hàng hóa khác 2.297 tỷ đồng, tăng 12,8%;…
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành 7 tháng năm 2023 ước đạt 2.833 tỷ đồng, chiếm 7,2% tổng mức và tăng 34,6% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 97 tỷ đồng, tăng 24,7%; dịch vụ ăn uống ước đạt 2.682 tỷ đồng, tăng 33,5%; dịch vụ lữ hành ước đạt 53 tỷ đồng, tăng 2,1 lần.
Doanh thu dịch vụ khác 7 tháng năm 2023 ước đạt 2.031 tỷ đồng, tăng 8,3% so với cùng kỳ, cụ thể: Bất động sản giảm 2,4%; dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 16,6%; dịch vụ giáo dục và đào tạo giảm 26,2%; dịch vụ y tế tăng 18,5%; dịch vụ nghệ thuật và vui chơi giải trí tăng 0,3%; dịch vụ sửa chữa tăng 9,8%; hoạt động phục vụ cá nhân khác tăng 7,8%.
Giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 năm 2023 tăng 0,52% so với tháng trước, tăng 0,10% so với cùng tháng năm trước; giảm 1,35% so với tháng 12 năm trước. Trong mức tăng 0,52% của CPI tháng 7/2023 so với tháng trước có: 04 nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng; 01 nhóm hàng hóa và dịch vụ giảm; 06 nhóm giá ổn định.
Bốn nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng gồm: Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,88% tác động làm CPI chung tăng 0,85 điểm phần trăm, do giá bảo hiểm y tế tăng theo mức lương cơ sở từ 01/7/2023, phí đổ rác tăng cao; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,03% tác động làm CPI chung tăng 0,23 điểm phần trăm do giá điện sinh hoạt, giá dầu hỏa tăng; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,38% do đang vào mùa du lịch nên giá du lịch tăng; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,07% chủ yếu do nhóm thực phẩm tăng 0,33% do giá lợn hơi tăng kéo theo giá thịt lợn thành phẩm tăng. Ngược lại nhóm giao thông giảm 0,26% so với tháng trước tác động từ giá xăng giảm 0,12%, giá xe máy giảm 1,48% do đại lý giảm giá bán.
Bình quân 7 tháng năm 2023, CPI tăng 1,76% so với cùng kỳ năm trước. Trong 11 nhóm hàng hóa tiêu dùng chính, nhóm bưu chính viễn thông ổn định, nhóm giao thông giảm 7,87% do giá xăng dầu giảm mạnh (-18,93%), 9 nhóm tăng giá gồm: Nhóm giáo dục tăng cao nhất (+9,16%); nhóm đồ uống và thuốc lá (+4,71%) chủ yếu tăng ở nhóm dịch vụ ăn uống ngoài gia đình; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+3,33%) do giá nguyên liệu sản xuất đồ uống và chi phí vận chuyển tăng; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác (+2,67%); nhóm may mặc, mũ nón và giày dép (+2,42%); nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình (+1,64%); nhóm văn hóa, giải trí và du lịch (+1,10%); nhóm thuốc và dịch vụ y tế (+0,94%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+0,65%) do giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng.
Xuất nhập khẩu hàng hoá
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 7 năm 2023 ước đạt 386 triệu USD, giảm 0,1% so với tháng trước và giảm 7,4% so với cùng kỳ. Tính chung 7 tháng năm 2023 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 2.440 triệu USD, giảm 10,6% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu tăng 6,3%, nhập khẩu giảm 27,5%.
Xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu tháng 7/2023 ước đạt 251 triệu USD, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 1,9% so với cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế tư nhân đạt 157 triệu USD, tăng 2% so với tháng trước và tăng 9,6% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 94 triệu USD, giảm 2,2% so với tháng trước và giảm 8,9% so với cùng kỳ.
Tính chung 7 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1.451 triệu USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ; trong đó: Kinh tế tư nhân đạt 886 triệu USD, tăng 11,5%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 565 triệu USD, giảm 0,9%. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước như: Hàng dệt may 789 triệu USD (chiếm 54,4%), tăng 2,8%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 4,3 triệu USD, tăng 6,9 lần; sản phẩm mây, tre, cói và thảm 4,6 triệu USD, tăng 85,3%; hàng thủy sản 15,3 triệu USD, tăng 78,8%; sắt thép 13,6 triệu USD, tăng 7,5%; giấy và các sản phẩm từ giấy 9,1 triệu USD, tăng 6,2%;... Ngược lại một số sản phẩm giảm như: sản phẩm gỗ 5,4 triệu USD, giảm 24,4%; xơ, sợi dệt các loại 85,2 triệu USD, giảm 17,4%; sản phẩm từ sắt thép 14,1 triệu USD, giảm 12,7%.
Theo thị trường xuất khẩu hàng hóa 7 tháng năm 2023, Châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của tỉnh đạt 760 triệu USD (chiếm 52,4%), tăng 12,4% so với cùng kỳ; tiếp đến là Châu Mỹ đạt 417 triệu USD (chiếm 28,7%); Châu Âu đạt 139 triệu USD (chiếm 9,6%).
Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 7/2023 ước đạt 135 triệu USD, giảm 0,9% so với tháng trước và giảm 20,7% so với cùng kỳ. Giá trị nhập khẩu giảm so với cùng kỳ chủ yếu do lượng xăng dầu nhập khẩu giảm mạnh. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 72 triệu USD, giảm 4,9% so với tháng trước và giảm 38,1% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 63 triệu USD, tăng 4,2% so với tháng trước và tăng 17,6% so với cùng kỳ.
Tính chung 7 tháng năm 2023, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 989 triệu USD, giảm 27,5% so với cùng kỳ năm trước, do tác động từ nhập khẩu xăng dầu giảm mạnh 436 triệu USD (-84,4%). Theo loại hình kinh tế: kinh tế tư nhân đạt 538 triệu USD, giảm 46,5%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 451 triệu USD, tăng 25,5%. Một số mặt hàng có mức tăng cao so với cùng kỳ như: Phế liệu sắt thép 128 triệu USD (+5,5 lần); máy vi tính, sản phẩm điện tử 4,7 triệu USD (+3,2 lần); hóa chất 11,1 triệu USD (+2,5 lần); máy móc, thiết bị, phụ tùng khác 40,1 triệu USD (+44,8%); xơ, sợi dệt các loại 66,4 triệu USD (+27,7%);... Ngược lại một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ như: vải các loại 300,8 triệu USD, chiếm 30,4% (-13,2%); nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 171,4 triệu USD, chiếm 17,3% (-23,6%); xăng dầu các loại 80,5 triệu USD, chiếm 8,1% (-84,4%); hàng thủy sản 0,9 triệu USD (-72,8%); chất dẻo nguyên liệu 1,6 triệu USD (-45,4%); sắt thép các loại 6,6 triệu USD (-23,8%);...
Hoạt động vận tải
Tổng doanh thu hoạt động vận tải tháng 7/2023 ước đạt 687 tỷ đồng, giảm 0,7% so với tháng trước và tăng 13,9% so với cùng kỳ. Tính chung 7 tháng năm 2023, tổng doanh thu hoạt động vận tải ước đạt 4.706 tỷ đồng, tăng 15,4% so với cùng kỳ, trong đó hoạt động vận tải hành khách tăng 18,7%; hoạt động vận tải hàng hóa tăng 14,3%.
Vận tải hành khách
Doanh thu vận tải hành khách tháng 7/2023 ước đạt 191 tỷ đồng, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 10,6% so với cùng kỳ. Tính chung 7 tháng năm 2023, ước đạt 1.328 tỷ đồng, tăng 18,7% so với cùng kỳ.
Vận tải hành khách tháng 7/2023 ước đạt 2,6 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 12,1% so với cùng kỳ; luân chuyển 291 triệu lượt khách.km, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 10,5% so với cùng kỳ. Tính chung 7 tháng năm 2023, vận tải hành khách ước đạt 18 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 19,8% và luân chuyển 2.021 triệu lượt khách.km, tăng 19,5% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hoá
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 7/2023 ước đạt 489 tỷ đồng, giảm 1,2% so với tháng trước và tăng 15,4% so với cùng kỳ. Tính chung 7 tháng năm 2023 ước đạt 3.330 tỷ đồng, tăng 14,3% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hóa tháng 7/2023 ước đạt 3,0 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 1% so với tháng trước và tăng 19,8% so với cùng kỳ; luân chuyển 1.057 triệu tấn.km hàng hóa, giảm 3,4% so với tháng trước và tăng 14,1% so với cùng kỳ. Tính chung 7 tháng năm 2023, vận tải hàng hóa ước đạt 20,5 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 17,6% so với cùng kỳ và luân chuyển 7.329 triệu tấn.km hàng hóa, tăng 14,8% so với cùng kỳ. Trong đó: vận tải hàng hóa đường bộ vận chuyển 10,5 triệu tấn, tăng 24,1% và luân chuyển 472 triệu tấn.km, tăng 15,8%; đường ven biển viễn dương vận chuyển 6,7 triệu tấn, tăng 12,3% và luân chuyển 6.446 triệu tấn.km, tăng 15,2%; đường thủy nội địa vận chuyển 3,3 triệu tấn, tăng 10,2% và luân chuyển 410 triệu tấn.km, tăng 7,6% so với cùng kỳ.
Dịch vụ hỗ trợ vận tải, bưu chính chuyển phát
Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 7/2023 ước đạt 6,7 tỷ đồng, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 3,7% so với cùng kỳ. Tính chung 7 tháng năm 2023 doanh thu ước đạt 44 tỷ đồng, tăng 3% so với cùng kỳ.
Doanh thu bưu chính chuyển phát tháng 7/2023 ước đạt 0,6 tỷ đồng, tăng 5% so với tháng trước và tăng 6,9% so với cùng kỳ. Tính chung 7 tháng năm 2023 doanh thu ước đạt 3,9 tỷ đồng, tăng 7,3% so với cùng kỳ.
Thu, chi Ngân sách Nhà nước và hoạt động ngân hàng
Tổng thu ngân sách Nhà nước 7 tháng năm 2023 ước đạt 14.318,1 tỷ đồng, đạt 68,2% so với dự toán, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa ước đạt 3.790 tỷ đồng, giảm 33,31%; thu thuế xuất, nhập khẩu ước đạt 1.055 tỷ đồng, giảm 50,3%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt 4.100,7 tỷ đồng, giảm 15,3%.
Tổng chi ngân sách địa phương 6 tháng năm 2023 ước đạt 9.148,8 tỷ đồng, tăng 18,1% so với cùng kỳ; trong đó, chi phát triển kinh tế ước đạt 4.646,6 tỷ đồng, tăng 39,4%; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt 4.476,3 tỷ đồng, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước.
Hoạt động ngân hàng: Dự kiến đến 31/7/2023, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước đạt 117.450 tỷ đồng, tăng 1,2% so với 30/6/2023 và tăng 12% so với 31/12/2022; tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng ước đạt 89.700 tỷ đồng, tăng 1,2% so với 30/6/2023 và tăng 4,1% so với 31/12/2022; tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát ở mức thấp chiếm 0,7% tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng trên địa bàn.
TÌNH HÌNH VĂN HÓA XÃ HỘI
Lao động, việc làm
Trong tháng 7/2023, toàn tỉnh có 3.800 lao động có việc làm tăng thêm, trong đó tạo việc làm tại địa phương 2.590 lao động, đi làm việc ở tỉnh ngoài 700 lao động, đi làm việc ở nước ngoài 510 lao động; tiếp tục tiếp nhận và chấp thuận nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, cấp giấy phép lao động cho lao động nước ngoài, thu hồi giấy phép lao động, hướng dẫn doanh nghiệp tổ chức huấn luyện ATVSLĐ và kiểm định, khai báo sử dụng máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ, nâng tổng số lao động có việc làm tăng thêm 7 tháng năm 2023 là 22.900 người (đạt 66,4% so với kế hoạch năm), trong đó, việc làm tại địa phương 15.940 lao động; đi làm việc ở tỉnh ngoài 4.680 lao động; đi làm việc ở nước ngoài 2.280 lao động. Tiếp nhận và chấp thuận nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài của 116 đơn vị với 218 vị trí công việc. Cấp giấy phép lao động cho 272 lao động nước ngoài (trong đó, cấp mới 224 lao động, cấp lại 21 lao động, gia hạn 27 lao động). Thu hồi giấy phép lao động của 34 lao động, thẩm định và giới thiệu 10 doanh nghiệp tuyển lao động trên địa bàn tỉnh đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng. Hướng dẫn 178 doanh nghiệp tổ chức huấn luyện ATVSLĐ cho 15.955 lao động tại doanh nghiệp và 29 doanh nghiệp kiểm định, khai báo sử dụng 800 loại máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ. Thực hiện chính sách trợ cấp thất nghiệp cho 5.513 lao động thất nghiệp, (trong đó tháng 7 là 1.313 trường hợp).
Trợ cấp xã hội
Sở Lao đông thương binh và Xã hội phối hợp với Cục Bảo trợ xã hội tổ chức tập huấn đăng ký, giải quyết chính sách trợ giúp xã hội trực tuyến và quản lý cơ sở dữ liệu bảo trợ xã hội cho gần 300 cán bộ làm công tác lao động - thương binh và xã hội cấp huyện, cấp xã; truyền thông nâng cao nhận thức trong cộng đồng trong công tác chăm sóc, giáo dục và phục hồi chức năng đối với trẻ tự kỷ cho 1.470 đại biểu là cán bộ cấp xã và người dân, nâng tổng số đại biểu là thành viên hội đồng khuyết tật, người khuyết tật và người dân tại các địa phương được tập huấn 7 tháng năm 2023 là 7.270 người. Tính đến 01/7/2023, toàn tỉnh chi trả trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng tại cộng đồng cho 112.315 người và hộ gia đình, cá nhân chăm sóc, đối tượng bảo trợ xã hội với kinh phí chi trả trên 354 tỷ đồng, hỗ trợ chi phí mai táng cho 2.777 người, kinh phí gần 20 tỷ đồng, hỗ trợ chi phí mua thẻ Bảo hiểm y tế cho 73.683 người, kinh phí gần 30 tỷ đồng. 78 trường hợp được thụ hưởng chương trình Cặp lá yêu thương.
Công tác đối với người có công
Tháng 7/2023, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp đơn vị liên quan tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác người có công với cách mạng; kết quả hoạt động công tác người có công; phong trào "Đền ơn, đáp nghĩa", "Uống nước, nhớ nguồn", "Chăm sóc giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công với nước"; những tấm gương người có công tiêu biểu trong mọi mặt đời sống xã hội. Vận động toàn thể CBCCVC, người lao động, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh ủng hộ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa tỉnh, tạo nguồn lực cùng với ngân sách nhà nước tổ chức các hoạt động đền ơn đáp nghĩa trên địa bàn tỉnh.
Tổ chức các đoàn đại biểu của tỉnh dâng dâng hương viếng các anh hùng liệt sĩ tại một số Nghĩa trang liệt sỹ thuộc tỉnh Quảng Trị, tỉnh Điện Biên và tỉnh Hà Giang; thăm, tặng quà người có công tiêu biểu tại các huyện, thành phố; các trung tâm tỉnh ngoài và các thương, bệnh binh nặng đang được nuôi dưỡng, điều trị tại các trung tâm của Tỉnh. Tổ chức Đoàn đại biểu của tỉnh dự gặp mặt, biểu dương người có công tiêu biểu toàn quốc năm 2023 nhân kỷ niệm 76 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ. Triển khai quà tặng của Chủ tịch nước và quà tặng của Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh đến người có công với cách mạng và thân nhân. Xây dựng kế hoạch tổ chức thắp nến tri ân các anh hùng liệt sĩ tại Đền thờ liệt sĩ tỉnh và các nghĩa trang liệt sĩ trên địa bàn toàn tỉnh.
Duy trì việc tiếp nhận, thẩm định hồ sơ và giải quyết chế độ chính sách cho người có công đảm bảo đúng quy trình, đảm bảo thời gian quy định. Tháng 7/2023, Sở tiếp nhận và giải quyết 1.507 lượt thủ tục hành chính về thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, nâng tổng số thủ tục giải quyết 7 tháng năm 2023 là 6.458 lượt thủ tục hành chính về thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng (trong đó tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh tiếp nhận 5.457 lượt thủ tục, tại bộ phận một cửa của Sở tiếp nhận 1.001 lượt thủ tục), 100% thủ tục giải quyết đúng hạn, không có thủ tục quá hạn. Kết quả, đã giải quyết chế độ đối với thân nhân sau khi người có công với cách mạng từ trần 1439 trường hợp; sửa đổi thông tin cá nhân trong hồ sơ người có công 981 trường hợp; giải quyết chế độ thờ cúng liệt sỹ 752 trường hợp; giải quyết chế độ mai táng phí đối với cựu chiến binh, chế độ ưu đãi đối với thân nhân sau khi người có công từ trần 782 trường hợp; giải quyết thêm chế độ trợ cấp đối với thương binh đồng thời là bệnh binh, thương binh đang hưởng trợ cấp mất sức lao động đối với 423 trường hợp; cấp thẻ, giấy chứng nhận chất độc hóa học, thương, bệnh binh cho 130 trường hợp và một số thủ tục khác liên quan.
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS
Tính đến hết ngày 25/6/2023, toàn tỉnh hiện có 2.295 người nhiễm HIV/AIDS còn sống (được báo cáo) tại 242/260 xã, phường, thị trấn (trong đó có 774 phụ nữ chiếm 33,7% và 28 trẻ em chiếm 1,22%). Sáu tháng đầu năm 2023, phát hiện mới 25 người nhiễm HIV, 06 người nhiễm HIV tử vong và 15 trường hợp phơi nhiễm với HIV trong đó có 01 trường hợp phơi nhiễm nghề nghiệp được cấp thuốc điều trị dự phòng miễn phí.
Ngành Y tế đã chủ trì tham mưu, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra giám sát các hoạt động phòng chống HIV/AIDS; hướng dẫn các cơ sở điều trị thực hiện dự trù tiếp nhận báo cáo sử dụng thuốc điều trị lao tiềm ẩn cho người nhiễm HIV theo sự chỉ đạo của Cục phòng chống HIV/AIDS; thực hiện mua và đóng nối thẻ BHYT cho người nhiễm HIV. Hệ thống giám sát, đánh giá chương trình HIV/AIDS được triển khai đồng bộ, thường xuyên.
Tình hình dịch bệnh
Tình hình COVID-19 tại tỉnh tính đến 18/7/2023 ghi nhận 318 ca mắc; luỹ tích số ca mắc từ năm 2020 đến ngày 18/7/2023 ghi nhận 274.492 ca nhiễm COVID-19. Luỹ tích đến nay toàn tỉnh đã triển khai được 4.365.897 mũi tiêm chủng vắc xin COVID-19.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Ngành Y tế đã tham mưu kiện toàn lại Ban chỉ đạo liên ngành ATTP tỉnh, đồng thời tham mưu cho Ban chỉ đạo ATVSTP tỉnh ban hành các văn bản quan trọng chỉ đạo tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát công tác đảm bảo ATTP trên địa bàn tỉnh, nâng cao vai trò trách nhiệm các cấp, các ngành trong công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, đặc biệt trong tháng hành động vì an toàn thực phẩm. Tiếp tục thực hiện lấy mẫu giám sát mối nguy về an toàn thực phẩm đối với các nhóm thực phẩm có nguy cơ cao và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Kết quả 6 tháng đầu năm 2023 như sau: Tổ chức giám sát, điều tra 03 vụ ngộ độc thực phẩm (NĐTP) với 1.049 người ăn, 56 người mắc, 20 người nhập viện và 01 tử vong (01 vụ NĐTP liên quan tới rượu ngày 28/01/2023 tại gia đình ở Vũ Thư: 08 người uống, 3 người mắc 01 tử vong; 01 vụ NĐTP xảy ra tại nhà ăn tập thể của doanh nghiệp trong KCN Phúc Khánh ngày 25/5/2023, với 1.017 người ăn, 46 người mắc, 17 người đi viện; 01 Vụ NĐTP liên quan Nhà hàng tại Tiền Hải, ngày 18/6/2023, với 24 người ăn, 7 người mắc, 2 người đi viện).
Hoạt động giáo dục
Chiều ngày 7/7, Đoàn công tác số 2, Ban Chỉ đạo cấp quốc gia kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023 làm việc với Hội đồng thi tỉnh Thái Bình về công tác chấm thi tốt nghiệp THPT. Để phục vụ cho việc chấm thi tốt nghiệp THPT, Sở Giáo dục và Đào tạo huy động 182 cán bộ tham gia chấm thi. Các điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực phục vụ công tác chấm thi được chuẩn bị chu đáo và bảo đảm an toàn, bảo mật theo đúng quy chế. Ban Chỉ đạo cấp quốc gia kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023 ghi nhận các điểm chấm thi đều thực hiện nghiêm quy định trong công tác chấm thi theo quy chế thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo; đồng thời chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng các yêu cầu về chuyên môn; có sự giám sát của lực lượng công an và thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo. Để bảo đảm kỳ thi công bằng, nghiêm túc, mỗi cán bộ tham gia từng khâu của quá trình chấm thi phải đúng vai; quá trình chấm thi phải thực hiện tuần tự, bảo đảm đúng tiến độ theo kế hoạch chung của cả nước.
Năm học 2023 - 2024, công tác tuyển sinh vào trường mầm non, lớp 1, lớp 6 và lớp 10 vẫn giữ ổn định như năm học trước. Các trường thực hiện phương thức tuyển sinh do UBND tỉnh và UBND huyện, thành phố quy định, riêng các trường THCS chất lượng cao thực hiện phương thức xét tuyển kết hợp tổ chức làm bài kiểm tra, đánh giá năng lực. Sở Giáo dục và Đào tạo yêu cầu phòng giáo dục và đào tạo các huyện, thành phố và các đơn vị tổ chức tuyển sinh đúng quy định, bảo đảm chính xác, công bằng, khách quan, hướng dẫn tuyển sinh đầy đủ, rõ ràng, công khai, tạo thuận lợi cho học sinh và cha mẹ học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học, duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập trẻ mẫu giáo 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và THCS.
Sáng ngày 18/7, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố điểm thi tốt nghiệp THPT năm 2023. Tỉnh Thái Bình có 475 bài thi đạt điểm 10. Môn Giáo dục Công dân có số bài thi đạt điểm 10 nhiều nhất với 434 bài thi, tiếp đến là môn Lịch sử 19 bài thi, môn Tiếng Anh 08 bài thi, môn Hóa học 06 bài thi, môn Sinh học 03 bài thi, Vật lý 03 bài thi, môn Địa lý 01 bài thi, môn Toán 01 bài thi đạt điểm 10. Riêng môn Ngữ văn, Thái Bình có 3 bài thi đạt 9,75 điểm. Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023, tỉnh Thái Bình có gần 21.000 thí sinh tham dự kỳ thi.
Hoạt động văn hóa thể dục thể thao
Chiều ngày 14/7, UBND huyện Vũ Thư tổ chức cuộc họp với 4 địa phương: Bách Thuận, Duy Nhất, Minh Lãng, Hồng Phong để nắm bắt thuận lợi, khó khăn và định hướng nhằm phát triển nông nghiệp gắn với du lịch tại 4 xã. Xã Bách Thuận có làng vườn với hàng trăm ha trồng hoa và cây cảnh, hàng trăm nhà vườn sinh vật cảnh và những ngôi nhà cổ có kiến trúc đặc trưng, thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái cộng đồng, du lịch homestay. Xã Duy Nhất có chùa Keo là di tích lịch sử đặc biệt cấp quốc gia, có các nông sản nổi tiếng như lạc đỏ, gạo nếp bể, đậu xanh. Xã Hồng Phong có bãi dâu tằm gần 300 ha, có sản phẩm nhộng, tằm ré, thu hút du khách trải nghiệm tại bãi dâu và thưởng thức sản phẩm đặc sản địa phương. Xã Minh Lãng có làng nghề thêu truyền thống với hàng nghìn lao động, hàng chục cơ sở thêu truyền thống vẫn đang hoạt động. Huyện chỉ đạo mỗi xã sẽ xây dựng kế hoạch, đề án phát triển nông nghiệp gắn với du lịch của địa phương mình, với mục tiêu gìn giữ, khơi dậy và phát huy sản phẩm, bản sắc văn hóa truyền thống của địa phương. Trên cơ sở đề án, kế hoạch của mỗi địa phương, huyện sẽ xây dựng đề án phát triển nông nghiệp gắn với du lịch của huyện nhằm kết nối các vùng này để tạo thành tour, tuyến du lịch, bảo đảm khi du khách đến du lịch trải nghiệm tại huyện được sắp xếp địa điểm, đón tiếp, hoạt động trải nghiệm, thưởng thức đặc sản, mua sản phẩm lưu niệm... Đặc biệt, các xã quan tâm vấn đề xử lý môi trường và tuyên truyền huy động sự vào cuộc của các hộ sản xuất nông nghiệp để phát triển du lịch, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống cho người dân.
Hướng tới kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/2023), Công đoàn ngành xây dựng tổ chức hội thao trong công nhân viên chức lao động (CNVCLĐ) năm 2023. Tham gia hội thao có gần 300 vận động viên đến từ các công đoàn cơ sở thuộc Công đoàn ngành xây dựng. Các vận động viên tranh tài ở 3 môn thi đấu gồm kéo co, cầu lông và cờ tướng để chọn đội có thành tích cao ở các nội dung vào thi đấu bán kết và chung kết. Hội thao là sân chơi giúp đoàn viên, CNVCLĐ rèn luyện sức khỏe, nâng cao đời sống tinh thần, đồng thời là dịp để đoàn viên, CNVCLĐ gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, tăng cường tình đoàn kết, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Kết thúc hội thao, Ban tổ chức trao thưởng cho các đội có thành tích cao ở các nội dung thi đấu.
Tình hình an toàn giao thông
Theo báo cáo của Công an tỉnh trong tháng 7/2023 (tính từ ngày 15/6/2023 đến ngày 14/7/2023), trên địa bàn tỉnh xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 06 người chết và 11 người bị thương. Tính chung 7 tháng năm 2023 toàn tỉnh xảy ra 65 vụ tai nạn giao thông, làm 31 người chết và 52 người bị thương.
Tình hình cháy nổ
Theo báo cáo từ Công an tỉnh, từ ngày 15/01/2023 đến ngày 15/7/2023, trên địa bàn tỉnh Thái Bình không xảy ra cháy, nổ./.