TÌNH HÌNH KINH TẾ
Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp trong tháng 11/2023 tiếp tục tập trung vào việc hoàn tất thu hoạch lúa Mùa và gieo trồng các loại cây màu vụ Đông, đảm bảo khung thời vụ. Tình hình chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng và khai thác thủy sản phát triển ổn định.
Nông nghiệp
Trồng trọt
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Mùa 2023 đạt 90.654 ha, giảm 810 ha (-0,89%) so với vụ mùa năm 2022, trong đó diện tích lúa đạt 75.000 ha, giảm 1.006 ha (-1,32%). Diện tích lúa giảm chủ yếu là do chuyển đổi mục đích sử dụng từ cấy lúa sang trồng cây hàng năm khác, chuyển sang đất phi nông nghiệp như làm đường, xây dựng cơ sở hạ tầng; chuyển sang trồng cây lâu năm.
Đến đầu tháng 11 năm 2023, diện tích lúa mùa trên địa bàn tỉnh đã thu hoạch đạt 100% tổng diện tích gieo cấy, dự ước năng suất ước đạt 59,8 tạ/ha, sản lượng thóc vụ mùa ước đạt 448.497 tấn, giảm 6.399 tấn (-1,4%) so với vụ mùa năm 2022.
Theo Tiến độ của Sở NN& PTNT tính đến ngày 23/11/2023, diện tích đất trồng lúa vụ Xuân đã cày lật 23.850 đạt 32% kế hoạch gieo cấy lúa Xuân năm 2024. Diện tích cây vụ đông đã trồng 36.493 ha đạt 94,7% so với kế hoạch đề ra cao hơn 1% so với cùng kỳ năm 2022; diện tích cây vụ đông đã thu hoạch 6.270 ha đạt 17% diện tích cây vụ đông đã trồng chủ yếu dưa bí, rau màu các loại.
Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh có mức tăng trưởng khá, dịch bệnh được kiểm soát, giá cả các mặt hàng gia súc gia cầm tăng tạo động lực cho các hộ chăn nuôi triển khai tái đàn mở rộng qui mô sản xuất.
Chăn nuôi gia súc: Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng tính chung 11 tháng năm 2023 ước đạt 9.691 tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ; trong đó sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 824 tấn, tăng 1,9%; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước đạt 8.867 tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước.
Chăn nuôi lợn: Mặc dù dịch bệnh được kiểm soát, chưa xảy ra dịch bệnh lớn trên đàn lợn, nhưng do giá lợn hơi vẫn biến động ở mức 47.000 - 62.000 đồng/kg nên việc tái đàn còn chậm. Tổng đàn lợn tại thời điểm tháng 01.10.2023 ước đạt 704,4 nghìn con, tăng 1,4% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 11 tháng năm 2023 ước đạt 154,8 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Chăn nuôi gia cầm: Việc phát triển đàn gia cầm chủ yếu vẫn theo quy mô nông hộ. Dự báo trong những tháng cuối năm, tình hình thời tiết ổn định, dịch bệnh ít xảy ra, số lượng đàn gia cầm sẽ duy trì phát triển tốt nhất là số lượng đàn gà do các hộ chăn nuôi đang chuẩn bị gà nuôi phục vụ nhu cầu thực phẩm vào dịp cuối năm. Ước tính tổng đàn gia cầm thời điểm 01.10.2023 đạt 14,5 triệu con, tăng 1,6% so với cùng kỳ; trong đó, số lượng đàn gà đạt 10,7 triệu con, tăng 1,7% so với cùng kỳ; số lượng đàn vịt đạt 3 triệu con, tăng 1,3%. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 11 tháng năm 2023 ước đạt 64,7 nghìn tấn, tăng 1,8%; trong đó sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng ước đạt 49,9 nghìn tấn, tăng 1% so với cùng kỳ. Sản lượng trứng gia cầm các loại 11 tháng năm 2023 ước đạt 312,2 triệu quả, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó sản lượng trứng gà ước đạt 178,5 triệu quả, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Lâm nghiệp
Trong tháng chưa có diện tích rừng trồng mới được bổ sung. Mười một tháng năm 2023 đã trồng mới được 8,3 ha rừng, giảm 30,3% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2.000 m3, tăng 1,6%; sản lượng củi khai thác ước đạt 6.852 ste, tăng 0,9%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 1.516 nghìn cây, giảm 0,5% so với cùng kỳ.
Thuỷ sản
Trong tháng 11, sản xuất thủy sản phát triển tương đối ổn định, không phát sinh dịch bệnh, thời tiết thuận lợi cho nuôi trồng và thu hoạch các sản phẩm thủy sản. Tổng sản lượng thủy sản 11 tháng năm 2023 ước đạt 262,6 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ, trong đó cá đạt 105,5 nghìn tấn, tăng 3,1%; tôm đạt 7,3 nghìn tấn, tăng 2,9%; thủy sản khác đạt 149,8 nghìn tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ.
Khai thác: Sản lượng khai thác 11 tháng năm 2023 ước đạt 93,6 nghìn tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 63,1 nghìn tấn, tăng 3,1%; tôm đạt 2,1 nghìn tấn, tăng 2,7%; thủy sản khác đạt 28,4 nghìn tấn, tăng 3% so với cùng kỳ.
Nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng thủy sản 11 tháng năm 2023 ước đạt 169 nghìn tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 42,4 nghìn tấn, tăng 3%; tôm đạt 5,2 nghìn tấn, tăng 3%; thủy sản khác đạt 121,4 nghìn tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ.
Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tỉnh Thái Bình tháng 11/2023 tăng 5,8% so tháng 10/2023, tăng 2,3% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành Khai khoáng tăng 1% so với tháng trước và giảm 2,9% so với cùng kỳ; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,6% so với tháng trước và giảm 3,8% so với cùng kỳ; Sản xuất và phân phối điện giảm 8,2% so với tháng trước và tăng 43,5% so với cùng kỳ; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,6% so với tháng trước và giảm 0,1% so với cùng kỳ.
Tính chung 11 tháng đầu năm 2023, IIP ước tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành khai khoáng giảm 16,8%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 0,6%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 76,8%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,4%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tháng 11/2023 có tốc độ tăng cao so với cùng tháng năm trước như: bia chai tăng gấp 3,2 lần; Nirorat Amoni (+23,9%); thép cán (+12,6%); túi khí an toàn tăng gấp 2,5 lần; điện sản xuất (+49,3%)... Tuy nhiên trong tháng 11/2023 một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: Sản phẩm sứ vệ sinh (-58%); Cần gạt nước, sương, tuyết trên kính chắn (-32,1%); bộ comple, quần áo đồng bộ (-20%); áo sơ mi cho người lớn (-34,9%); loa đã hoặc chưa lắp vào hộp loa (-49%)...
Ước chung 11 tháng 2023, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ như: Sắt thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác (+72,3%); Thép cán (+69,1%); Túi khí an toàn (+85,3%); điện sản xuất (+88,9%); Khăn mặt, khăn tắm và khăn khác dùng trong phòng (+7,5%);... Tuy nhiên một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket (-3,5%); áo sơ mi cho người lớn (-35,4%); Sản phẩm sứ vệ sinh (-13%); Bộ đèn sủ dụng cho cây NOEL (-12,8%); Khí tự nhiên dạng khí (-22,3%)...
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 11/2023 giảm 2,8% so với tháng trước và giảm 9,59% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2023, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,65% so với cùng kỳ năm 2022.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/11/2023 tăng 9,48% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 15,39% so với cùng thời điểm năm trước.
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/11/2023 tăng 1,46% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 2,23% so với cùng thời điểm năm trước.
Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước tháng 11/2023 ước đạt 970 tỷ đồng, tăng 13,8% so tháng trước và tăng 0,3% so cùng kỳ năm 2022. Vốn Ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 514 tỷ đồng tăng 25,7% so tháng trước và tăng 33,5% so với cùng kỳ; trong đó vốn cân đối ngân sách tỉnh ước đạt 362 tỷ đồng, tăng 47,7% so với tháng trước và tăng 69,8% so với cùng kỳ; vốn ngân sách huyện ước đạt 307 tỷ đồng, tăng 0,3% so với tháng trước và đạt 72,3% so với cùng kỳ; vốn ngân sách cấp xã ước đạt 148 tỷ đồng, tăng 8,7% so với tháng trước và đạt 94,3% so với cùng kỳ.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 11 tháng năm 2023 ước đạt 7.323 tỷ đồng, tăng 12,9% so cùng kỳ. Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước đạt 3.239 tỷ đồng tăng 8,6%; trong đó vốn cân đối ngân sách tỉnh ước đạt 1.750 tỷ đồng, đạt 94,9%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 2.795 tỷ đồng, tăng 11,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã ước đạt 1.289 tỷ đồng, tăng 28,8% so cùng kỳ.
Một số dự án đầu tư khởi công mới trong tháng 11 năm 2023
Dự án nạo vét kênh trục từ đoạn 223 đến kênh Hậu Thượng đoạn xã Văn Lang, xã Chí Hòa huyện Hưng Hà, vốn đầu tư 43 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 3 tỷ đồng;
Dự án cải tạo đường từ khu Lái đến khu văn, Thị trấn Hưng Nhân huyện Hưng Hà, vốn đầu tư 9 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 4 tỷ đồng;
Dự án đường huyện 61 đi đường huyện 67 (giai đoạn 2), vốn đầu tư 98 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 4 tỷ đồng;
Dự án xây dựng đường tỉnh 464 đoạn qua địa phận xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương, vốn đầu tư 120 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 25 tỷ đồng;
Dự án cải tạo, nâng cấp đường cứu hộ, cứu nạn liên xã Quang Bình, Quang Minh, Minh Tân, Bình Thanh huyện Kiến Xương, vốn đầu tư 341,7 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 20 tỷ đồng;
Dự án cải tạo, nâng cấp tuyến đường ĐH.17A (đoạn từ cầu Quán đến cống Ông Vang thuộc địa phận xã Quang Bình) huyện Kiến Xương, vốn đầu tư 42 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 1 tỷ đồng;
Dự án cải tạo, nâng cấp tuyến đường ven kênh Nguyệt Lâm từ xã Quang Minh đi xã Minh Tân và chống sạt lở bờ kênh huyện Kiến Xương, vốn đầu tư 76 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 6 tỷ đồng;
Dự án khu thực nghiệm sinh học công nghệ cao tỉnh Thái Bình (GDD) xã Minh Quang, huyện Vũ Thư, vốn đầu tư 70,3 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 9,5 tỷ đồng;
Một số dự án đầu tư chuyển tiếp bằng nguồn ngân sách, dự kiến trong tháng 11 năm 2023
Dự án xây dựng Hạ tầng khu dân cư tại khu đất tiếp giáp khu Tái định cư khu Công nghiệp TBS Sông Trà, xã Tân Bình, thành phố Thái Bình, vốn đầu tư 56,1 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 900 triệu đồng;
Dự án xây dựng đường đến trung tâm xã Vũ Đông, Thành phố Thái Bình, vốn đầu tư 67 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 3 tỷ đồng;
Dự án xây dựng đường Nguyễn Tông Quai (từ đường Lý Bôn đến giáp khu đô thị Kiến Giang), Thành phố Thái Bình, vốn đầu tư 43,6 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 2 tỷ đồng;
Dự án cải tạo, nâng cấp đường từ cầu Kìm đến hết địa phận xã Vũ Lạc Thành phố Thái Bình, vốn đầu tư 166 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 2,5 tỷ đồng;
Dự án xây dựng công viên Kỳ Bá (giai đoạn 2), thành phố Thái Bình, vốn đầu tư 99,5 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 8,5 tỷ đồng;
Dự án xây dựng đường Ngô Quyền, Thành phố Thái Bình (giai đoạn 2), vốn đầu tư 84,9 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 12 tỷ đồng; Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu dân cư tổ 7 phường Phúc Khánh (giai đoạn 2), vốn đầu tư 85,3 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 1,1 tỷ đồng.
Dự án xây dựng Hồ Ty Diệu Thành phố Thái Bình, vốn đầu tư 110 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 7,8 tỷ đồng;
Dự án nâng cấp đường huyện 73 đoạn từ UBND xã An Tràng đi xã Đồng Tiến, huyện Quỳnh Phụ, vốn đầu tư 70 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 5 tỷ đồng;
Dự án nâng cấp đường huyện 72 đến đên Hữu Hóa, địa phận xã An Thanh, huyện Quỳnh Phụ (bổ sung), vốn đầu tư 65 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 5 tỷ đồng;
Dự án nâng cấp đường liên xã Quỳnh Hội- An Vinh, huyện Quỳnh Phụ, vốn đầu tư 52 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 2 tỷ đồng;
Dự án xây dựng Hạ tầng khu dân cư xã An Dục, An Tràng, huyện Quỳnh Phụ, vốn đầu tư 72,2 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 5 tỷ đồng;
Dự án xây dựng Hạ tầng khu dân cư Đồng Sau, Thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ, vốn đầu tư 143,7 tỷ đồng, dự kiến tháng 11 đạt 25 tỷ đồng;
Tình hình đăng ký kinh doanh
Tính đến đầu tháng 11/2023 đã cấp 1.043 giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký đạt 10.617 tỷ đồng. Xác nhận Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 567 doanh nghiệp. Doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là 113 doanh nghiệp, trong đó thu hồi GCN ĐKKD do DN giải thể là 113 doanh nghiệp.
Trong tháng 11 năm 2023 số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới là 05 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 53,9 triệu USD; gồm: Dự án nhà máy Công ty TNHH Giày Ngọc Đằng sản xuất giầy và các phụ kiện của giầy đạt 42 triệu USD; Dự án xây dựng nhà máy sản xuất dụng cụ kim khí và đồ gia dụng, Sản xuất dao, kéo, kìm đa năng và các công cụ khác đạt 2 triệu USD; Dự án nhà máy sản xuất dây điện tử tiết diện cao, sản xuất linh kiện điện tử đạt 2 triệu USD; Dự án nhà máy sản xuất giày dép Thái Thụy sản xuất giày, dép đạt 1,9 triệu USD; Dự án thành lập công ty HUMC đạt 6 triệu USD.
Tính chung 11 tháng có 25 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 710, 5 triệu USD.
Thương mại, dịch vụ và giá cả
Hoạt động thương mại dịch vụ trong tháng cơ bản ổn định, thị trường không có biến động lớn, hầu hết các nhóm hàng có mức tăng nhẹ so với tháng trước. Thu nhập của đa số người lao động trong các doanh nghiệp sản xuất vẫn chưa có dấu hiệu hồi phục do tình hình đơn hàng khan hiếm đã tác động trực tiếp đến tiêu dùng.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11 năm 2023 ước đạt 6.058 tỷ đồng, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 8,7% so với cùng kỳ. Trong đó: Bán lẻ hàng hóa đạt 5.343 tỷ đồng, tăng 1,8% và tăng 9,4% (lương thực, thực phẩm 1.839 tỷ đồng, tăng 2,4% và tăng 30,8%; xăng dầu các loại 906 tỷ đồng, tăng 0,4% và tăng 9,6%; gỗ và vật liệu xây dựng 876 tỷ đồng, tăng 1,5% và tăng 12,6%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình 585 tỷ đồng, giảm 0,2% và giảm 0,9%; phương tiện đi lại 264 tỷ đồng, tăng 4,9% và giảm 29,7%; hàng may mặc 208 tỷ đồng, tăng 2,3% và giảm 7%;…); dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 392 tỷ đồng, tăng 0,3% và tăng 1,1%; du lịch lữ hành đạt 3,4 tỷ đồng, tăng 7,1% và tăng 1,7%; dịch vụ khác đạt 319 tỷ đồng, tăng 3,2% và tăng 6,7%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 11 tháng năm 2023 ước đạt 62.750 tỷ đồng, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ngành kinh tế, doanh thu bán lẻ hàng hóa 11 tháng năm 2023 ước đạt 55.063 tỷ đồng, chiếm 87,7% tổng mức và tăng 15,5% so với cùng kỳ. Trong đó, có 9/12 nhóm hàng có doanh thu tăng so với cùng kỳ: Nhóm lương thực, thực phẩm đạt 18.357 tỷ đồng, tăng 22,3%; nhóm xăng dầu các loại đạt 9.615 tỷ đồng, tăng 12%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng đạt 9.123 tỷ đồng, tăng 22,2%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình đạt 6.210 tỷ đồng, tăng 7%; nhóm phương tiện đi lại đạt 2.956 tỷ đồng, tăng 11,4%; nhóm hàng may mặc 2.225 tỷ đồng, tăng 9,7%;… Bên cạnh đó 3/12 nhóm hàng có doanh thu giảm gồm: nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm giảm 7,8%; nhóm ô tô con giảm 6,6% và nhóm nhiên liệu khác giảm 1,1%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành 11 tháng năm 2023 ước đạt 4.442 tỷ đồng, chiếm 7,1% tổng mức và tăng 24% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 161 tỷ đồng, tăng 25,5%; dịch vụ ăn uống ước đạt 4.196 tỷ đồng, tăng 22,7%; dịch vụ lữ hành ước đạt 86 tỷ đồng, tăng 1,4 lần.
Doanh thu dịch vụ khác 11 tháng năm 2023 ước đạt 3.245 tỷ đồng, tăng 9,3% so với cùng kỳ, cụ thể: Bất động sản tăng 2%; dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 14,4%; dịch vụ giáo dục và đào tạo giảm 24,6%; dịch vụ y tế tăng 14,5%; dịch vụ nghệ thuật và vui chơi giải trí tăng 2,7%; dịch vụ khác tăng 12,4%.
Giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 năm 2023 tăng 0,80% so với tháng trước, tăng 2,79% so với cùng tháng năm trước; tăng 2,71% so với tháng 12 năm trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 04 nhóm hàng tăng giá so với tháng trước (nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống; nhóm hàng thiết bị và đồ dùng gia đình; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác); có 02 nhóm hàng giảm giá (nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD; nhóm giao thông) và 05 nhóm hàng có giá ổn định.
Một số nguyên nhân tác động đến chỉ số giá tháng 11/2023 so với tháng trước: nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng mạnh 15,08%, do thực hiện thanh toán giá dịch vụ y tế theo thông tư 22/2023 TT- BYT; nhóm giao thông giảm 1,02% do giá xăng dầu đến ngày 23/11/2023 lần lượt giảm (xăng 95 giảm 500 đồng/lít; xăng E5 giảm 680 đồng/lít; dầu điezen giảm 2.220 đồng/lít; dầu hỏa giảm 1.810 đồng/lít); giá gạo liên tục có xu hướng tăng do lượng thu mua dự trữ cho xuất khẩu tăng cao, chiều ngược lại giá thịt lợn hơi có xu hướng giảm do tác động từ dịch bệnh và nhu cầu thu mua xuất đi thị trường Trung Quốc giảm.
Bình quân 11 tháng năm 2023, CPI tăng 1,89% so với cùng kỳ năm trước. Trong 11 nhóm hàng hóa tiêu dùng chính, nhóm bưu chính viễn thông ổn định, nhóm giao thông giảm 4,74% do giá xăng dầu giảm (-11,71%); còn lại 09 nhóm tăng giá gồm: Nhóm giáo dục tăng cao nhất (+11,49%); nhóm hàng hóa và dịch vụ khác (+4,86%); nhóm đồ uống và thuốc lá (+3,54%); nhóm may mặc, mũ nón và giày dép (+2,48%); nhóm thuốc và dịch vụ y tế (+2,03%); nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+1,88%), chủ yếu tăng ở nhóm dịch vụ ăn uống ngoài gia đình; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình (+1,65%); nhóm văn hóa, giải trí và du lịch (+1,09%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+0,96%).
Xuất nhập khẩu hàng hoá
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 11 năm 2023 ước đạt 318 triệu USD, giảm 12,3% so với tháng trước và giảm 17,5% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2023 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 4.006 triệu USD, giảm 7,6% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu tăng 6%, nhập khẩu giảm 22,7%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 835 triệu USD.
Xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu tháng 11/2023 ước đạt 182 triệu USD, giảm 20,4% so với tháng trước và giảm 16,6% so với cùng kỳ. Giá trị xuất khẩu tháng 11 tiếp tục giảm sâu so với tháng trước do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, nhu cầu tiêu dùng giảm, đơn hàng khan hiếm, nhất là lĩnh vực sản xuất gia công hàng dệt may hiện tại chưa có dấu hiệu phục hồi; một số doanh nghiệp phải giảm giờ làm, cho công nhân nghỉ phép, nghỉ luân phiên, nghỉ theo tuần,…Giá trị xuất khẩu kinh tế tư nhân đạt 113 triệu USD, giảm 17,2% so với tháng trước và giảm 17,4% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 69 triệu USD, giảm 25,1% so với tháng trước và giảm 15,3% so với cùng kỳ. So với tháng trước hầu hết các mặt hàng đều giảm, trong đó một số mặt hàng giảm mạnh như: Hàng thủy sản (-42,8%); giấy và các sản phẩm từ giấy (-37,3%); hàng hóa khác (-26,2%); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (-18,8%); hàng dệt may (-18,7%); sản phẩm từ sắt thép (-16,8%); sản phẩm gốm sứ (-16,7%); sản phẩm gỗ (-13,6%);...
Tính chung 11 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 2.420 triệu USD, tăng 6% so với cùng kỳ; trong đó: Kinh tế tư nhân đạt 1.422 triệu USD, tăng 6,9%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 998 triệu USD, tăng 4,8%. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ như: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (+4,4 lần); hàng thủy sản (+67,3%); sản phẩm mây, tre, cói và thảm (+56,7%); sản phẩm gốm, sứ (+25,4%); hàng hóa khác (+22,7%);... Ngược lại một số sản phẩm giảm như: sắt thép (-27,3%); sản phẩm gỗ (-16,9%); hàng dệt may (-4,5%);…
Theo thị trường xuất khẩu hàng hóa 11 tháng năm 2023, Châu Á vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của tỉnh đạt 1.334 triệu USD (chiếm 55,1%), tăng 16,2% so với cùng kỳ; tiếp đến là Châu Mỹ đạt 659 triệu USD (chiếm 27,2%), giảm 3,3%; Châu Âu đạt 234 triệu USD (chiếm 9,7%).
Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 11/2023 ước đạt 136 triệu USD, tăng 1,3% so với tháng trước và giảm 18,8% so với cùng kỳ. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 59 triệu USD, tăng 2,9% so với tháng trước và giảm 46,2% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 79 triệu USD, tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 31,6% so với cùng kỳ.
Tính chung 11 tháng năm 2023, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 1.585 triệu USD, giảm 22,7% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do ảnh hưởng từ kim ngạch nhập khẩu xăng dầu của Công ty TNHH vận tải thủy bộ Hải Hà giảm mạnh (-668 triệu USD); ngoài ra mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh là gia công hàng dệt may giảm nên lượng nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất giảm kéo theo kim ngạch nhập khẩu chung của toàn tỉnh giảm. Theo loại hình kinh tế: kinh tế tư nhân đạt 845 triệu USD, giảm 42,9%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 740 triệu USD, tăng 29,8%. Một số mặt hàng có mức tăng cao so với cùng kỳ như: Hóa chất (+2,6 lần); máy vi tính, sản phẩm điện tử (+2,3 lần); phế liệu sắt thép (+2,1 lần); máy móc, thiết bị, phụ tùng khác (+40,9%); hàng hóa khác (+28,6%); xơ, sợi dệt các loại (+24,1%);... Ngược lại một số mặt hàng giảm như: xăng dầu các loại (-89,2%); chất dẻo nguyên liệu (-34,3%); hàng thủy sản (-31%); sắt thép các loại (-7,2%); vải các loại (-2,9%);...
Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của tỉnh đạt 1.294 triệu USD (chiếm 81,6%), giảm 18,2% so với cùng kỳ; tiếp đến là Châu Âu đạt 55 triệu USD, (chiếm 3,5%); Châu Mỹ đạt 51 triệu USD.
Hoạt động vận tải
Tổng doanh thu hoạt động vận tải tháng 11/2023 ước đạt 714 tỷ đồng, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 11,3% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2023, tổng doanh thu hoạt động vận tải ước đạt 7.513 tỷ đồng, tăng 14,3% so với cùng kỳ, trong đó hoạt động vận tải hành khách tăng 16%; hoạt động vận tải hàng hóa tăng 13,8%.
Vận tải hành khách
Doanh thu vận tải hành khách tháng 11/2023 ước đạt 198 tỷ đồng, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 11,3% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2023, ước đạt 2.110 tỷ đồng, tăng 16% so với cùng kỳ.
Vận tải hành khách tháng 11/2023 ước đạt 2,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ; luân chuyển 301 triệu lượt khách.km, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 11,3% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2023, vận tải hành khách ước đạt 28,6 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 17,1% và luân chuyển 3.211 triệu lượt khách.km, tăng 16,3% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hoá
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 11/2023 ước đạt 509 tỷ đồng, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 11,4% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2023 ước đạt 5.324 tỷ đồng, tăng 13,8% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hóa tháng 11/2023 ước đạt 3,1 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 15,1% so với cùng kỳ; luân chuyển 1.114 triệu tấn.km hàng hóa, tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 10% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2023, vận tải hàng hóa ước đạt 32,9 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 17,5% so với cùng kỳ và luân chuyển 11.672 triệu tấn.km hàng hóa, tăng 13,3% so với cùng kỳ. Trong đó: vận tải hàng hóa đường bộ vận chuyển 16,7 triệu tấn, tăng 25,8% và luân chuyển 755 triệu tấn.km, tăng 15,9%; đường ven biển viễn dương vận chuyển 10,6 triệu tấn, tăng 10,2% và luân chuyển 10.243 triệu tấn.km, tăng 13,4%; đường thủy nội địa vận chuyển 5,5 triệu tấn, tăng 9,6% và luân chuyển 675 triệu tấn.km, tăng 8,8% so với cùng kỳ.
Dịch vụ hỗ trợ vận tải, bưu chính chuyển phát
Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 11/2023 ước đạt 7,1 tỷ đồng, tăng 1% so với tháng trước và tăng 5,2% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2023 doanh thu ước đạt 72 tỷ đồng, tăng 3,7% so với cùng kỳ.
Doanh thu bưu chính chuyển phát tháng 11/2023 ước đạt 0,7 tỷ đồng, tăng 4,7% so với tháng trước và tăng 6,9% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2023 doanh thu ước đạt 6,6 tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ.
Thu, chi Ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước 11 tháng năm 2023 ước đạt 20.721 tỷ đồng, đạt 86,6% so với dự toán, giảm 13,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa ước đạt 7.312,7 tỷ đồng, giảm 23,9%; thu thuế xuất, nhập khẩu ước đạt 1.400 tỷ đồng, giảm 53,5%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt 6.479,5 tỷ đồng, giảm 14,2%.
Tổng chi ngân sách địa phương 11 tháng năm 2023 ước đạt 14.294,2 tỷ đồng, tăng 6,4% so với cùng kỳ; trong đó, chi phát triển kinh tế ước đạt 6.794,1 tỷ đồng, tăng 10,6%; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt 7.413,3 tỷ đồng, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước.
TÌNH HÌNH VĂN HÓA XÃ HỘI
Lao động, việc làm
Tháng 11 có khoảng 1.320 lao động có việc làm tăng thêm (trong đó: việc làm tại địa phương 1.150 lao động, đi làm việc ở tỉnh ngoài 100 lao động, đi làm việc ở nước ngoài 70 lao động, nâng tổng số người được giải quyết việc làm mới 11 tháng đầu năm là 34.020 người (đạt 98,6% so với kế hoạch năm), trong đó, việc làm tại địa phương 24.440 người, đi làm việc ở tỉnh ngoài 6.520 người, đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 3.060 người. Sau “Ngày hội việc làm và kết nối cung cầu lao động năm 2023” đã có 31 đơn vị thỏa thuận hợp tác trong việc liên kết đào tạo, cung ứng lao động; 1.600 lượt sinh viên, học sinh và người lao động được tư vấn, kết nối (tăng 45% so với cùng kỳ năm trước).
Trong tháng, thực hiện trợ cấp thất nghiệp cho 667 lao động. Cấp giấy phép lao động cho 110 lao động nước ngoài (trong đó: cấp mới 95 lao động, cấp lại 01 lao động, gia hạn 14 lao động), thu hồi giấy phép lao động của 04 lao động, nâng tổng số lao động nước ngoài được cấp giấy phép trong 11 tháng là 651 lao động; thu hồi giấy phép của 111 lao động cho người nước ngoài. Xác nhận hợp đồng cá nhân cho 03 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy hỗ trợ phát triển thị trường lao động, đào tạo nguồn nhân lực; hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện đúng các quy định về an toàn vệ sinh lao động, chế độ chính sách đối với người lao động theo Luật Lao động.
Tháng 11/2023 có 3.600 người tham gia học nghề, trong đó: Trình độ Cao đẳng là 800 người, Trình độ trung cấp là 500 người, Trình độ Sơ cấp và đào tạo dưới 03 tháng là 2.300 người, nâng tổng số người tham gia học nghề 11 tháng năm 2023 là 33.754 người (đạt 92% kế hoạch năm, tăng 0,8% so cùng kỳ năm trước). Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ 24,8%.
Trợ cấp xã hội
Tiếp tục phố hợp với cơ quan truyền thông tỉnh tuyên truyền đăng tải tin, bài, phóng sự, chuyên mục về công tác giảm nghèo, chính sách hỗ trợ cho người nghèo, công tác người cao tuổi, công tác trợ giúp xã hội; chính sách trợ giúp người khuyết tật, công tác chi trả không dùng tiền mặt đối với đối tượng hưởng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công và chính sách trợ giúp xã hội hàng tháng tại cộng đồng. Kiểm tra công tác rà soát hộ nghèo hộ cận nghèo tại 4 huyện Thái Thuỵ, Tiền Hải, Kiến Xương và huyện vũ Thư, (mỗi huyện 2 xã).
Theo báo cáo kết quả sơ bộ rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo định kỳ năm 2023 của các huyện, thành phố: Tổng số hộ nghèo toàn tỉnh là 12.292 hộ, đạt tỷ lệ 1,87% (giảm 1.778 hộ, giảm 0,27% so với năm 2022); Tổng số hộ cận nghèo toàn tỉnh là 13.099 hộ, đạt tỷ lệ 2,0% (giảm 1.755 hộ, giảm 0,26% so với kết quả năm 2022).
Duy trì thực hiện các chính sách giảm nghèo, hỗ trợ vay vốn, tiền điện, học phí cho các đối tượng thuộc hộ nghèo, cận nghèo. Đến nay đã hỗ trợ vay vốn tín dụng cho 409 hộ nghèo; 613 hộ cận nghèo; 200 hộ thoát nghèo; hỗ trợ chính sách tiền điện và học phí cho học sinh nghèo, cận nghèo, khuyết tật. Thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thực hiện chính sách bảo trợ xã hội theo quy định và chi trả trợ cấp cho đối tượng bảo trợ xã hội đảm bảo kịp thời, đầy đủ. Cập nhật, rà soát dữ liệu đối tượng đang được chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở vào phần mềm quản lý. Các cơ sở trợ giúp xã hội công lập đã thực hiện tốt việc tiếp nhận, quản lý, chăm sóc và nuôi dưỡng đối tượng tại đơn vị, tình hình an ninh trật tự, an toàn được duy trì.
Công tác đối với người có công
Duy trì việc tiếp nhận, thẩm định hồ sơ và giải quyết chế độ chính sách cho người có công đảm bảo đúng quy trình, đảm bảo thời gian quy định. Tháng 11, Tiếp nhận và giải quyết 1.769 lượt thủ tục hành chính về thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, (trong đó 1.558 lượt thủ tục tại Trung tâm phục vụ hành chính công tỉnh Thái Bình).
Kết quả, 11 tháng năm 2023, tiếp nhận và giải quyết 11.041 lượt thủ tục hành chính về thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, 100% thủ tục giải quyết đúng hạn, không có thủ tục quá hạn. Việc tiếp nhận, quản lý hồ sơ lưu trữ được thực hiện theo đúng quy định; cung cấp thông tin, hồ sơ người có công kịp thời. Tiếp tục nắm bắt tình hình công dân, thực hiện nghiêm Thông báo số 37/TB-VP ngày 31/8/2023 của Văn phòng UBND tỉnh thông báo kết luận của Chủ tịch UBND tỉnh tại Hội nghị tiếp xúc, đối thoại với công dân thuộc diện phải ngừng trợ cấp người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học trên đia bàn tỉnh.
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS
Sở Y tế đã chủ động tham mưu, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra giám sát các hoạt động phòng chống HIV/AIDS; tăng cường các biện pháp dự phòng bệnh đậu mùa khỉ cho nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV; thực hiện mua và đóng nối thẻ BHYT cho người nhiễm HIV; rà soát các ca xét nghiệm khẳng định HIV dương tính mới chưa tham gia điều trị, tư vấn cho đối tượng tham gia điều trị; Hệ thống giám sát, đánh giá chương trình HIV/AIDS được triển khai đồng bộ, thường xuyên.
Đến ngày 31/10/2023, toàn tỉnh hiện có 2.311 người nhiễm HIV/AIDS còn sống (được báo cáo) tại 242/260 xã; 10 tháng đầu năm phát hiện mới 47 người nhiễm HIV, 11 người nhiễm HIV tử vong và 36 trường hợp phơi nhiễm với HIV trong đó có 02 trường hợp phơi nhiễm nghề nghiệp được cấp thuốc điều trị dự phòng miễn phí.
Các cơ sở điều trị thay thế nghiện chất bằng thuốc Methadone đã tiếp nhận và điều trị cho 1.376 người nghiện tại tất cả các cơ sở điều trị và duy trì việc thực hiện các xét nghiệm định kỳ và test nhanh heroin. Cấp thuốc ARV qua nguồn quỹ BHYT và điều trị ARV tại 10 cơ sở điều trị cho 1.448 bệnh nhân.
Tình hình dịch bệnh
Đến ngày 30/10/2023 toàn tỉnh ghi nhận 1.970 ca nghi Hội chứng Cúm; 636 trường hợp mắc chân tay miệng tăng 27 ca so với cùng kỳ năm 2022, các ca mắc tập trung ở nhóm trẻ dưới 3 tuổi, không ghi nhận ca tử vong; 464 trường hợp mắc thủy đậu tăng 138 ca so với cùng kỳ năm 2022 (326); Ho gà ghi nhận 18 ca, tăng 14 ca so với cùng kỳ năm 2022 (04). Các bệnh truyền nhiễm tương đương so với cùng kỳ năm 2022. 10 tháng đầu năm không ghi nhận ca bệnh truyền nhiễm như Cúm A/H5N1, H7N9...
Chương trình phòng chống sốt xuất huyết và sốt rét: Toàn tỉnh đã ghi nhận tổng số 730 ca mắc Sốt xuất huyết, trong đó có 308 ca nội sinh, không ghi nhận trường hợp sốt xuất huyết nặng và tử vong. 10 tháng đầu năm toàn tỉnh không phát hiện bệnh nhân sốt rét.
Mười tháng đầu năm ghi nhận 373 ca mắc, luỹ tích số ca mắc từ năm 2020 đến ngày 31/10/2023, tỉnh Thái Bình ghi nhận 274.612 ca nhiễm COVID-19. Luỹ tích đến nay toàn tỉnh đã triển khai được 4.365.897 mũi tiêm chủng vắc xin COVID-19.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Ngành Y tế đã tham mưu kiện toàn lại Ban chỉ đạo liên ngành ATTP tỉnh, đồng thời tham mưu cho Ban chỉ đạo ATVSTP tỉnh ban hành các văn bản quan trọng chỉ đạo tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát công tác đảm bảo ATTP trên địa bàn tỉnh, nâng cao vai trò trách nhiệm các cấp, các ngành trong công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, đặc biệt trong tháng hành động vì an toàn thực phẩm. Tiếp tục thực hiện lấy mẫu giám sát mối nguy về an toàn thực phẩm đối với các nhóm thực phẩm có nguy cơ cao và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
Triển khai việc lấy mẫu giám sát mối nguy ô nhiễm thực phẩm với 1.339 mẫu thực phẩm có nguy cơ cao trên địa bàn 3 huyện (Vũ Thư, Thành Phố, Đông Hưng) 6 phát hiện 18 mẫu không đạt, ngành đã gửi văn bản tới các cơ quan quản lý chuyên ngành và các đơn vị liên quan tiếp tục kiểm tra giám sát và xử lý theo quy định.
Tổ chức giám sát, điều tra 06 vụ ngộ độc thực phẩm (NĐTP) với 1.110 người ăn, 117 người mắc, 45 người nhập viện và 02 người tử vong
Hoạt động giáo dục
Sở Giáo dục và Đào tạo đã nghiêm túc triển khai thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, Bộ GDĐT; hoàn thành việc tham mưu các văn bản của ngành theo chương trình, kế hoạch của UBND tỉnh; hoàn thành nhiệm vụ năm học 2022-2023; ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai nhiệm vụ năm học 2023-2024 đối với các cấp học trên địa bàn tỉnh. Quy mô, mạng lưới trường lớp tiếp tục ổn định, chất lượng giáo dục các cấp học tiếp tục được duy trì tốt; tiếp tục thực hiện hiệu quả Chương trình GDPT 2018. Hoàn thành việc công nhận tỉnh Thái Bình đạt chuẩn phổ cập tiểu học, THCS cơ sở mức độ 3 và xóa mù chữ mức độ 2 năm 2022.
Thực hiện nghiêm túc các kỳ thi, cuộc thi cho học sinh và giáo viên trong toàn ngành (Hội thi KHKT học sinh trung học cấp tỉnh, Kỳ thi chọn HSG quốc gia, Giải thể thao học sinh phổ thông cấp tỉnh, Hội thi Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh Chương trình GDTX cấp THPT, Hội thi Giáo viên chủ nhiệm giỏi THPT cấp tỉnh năm học 2022- 2023.…); tổ chức nghiêm túc, đúng quy chế Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2023-2024; Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023.
Kỉ cương, nền nếp, an toàn trường học tiếp tục được thực hiện tốt; cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học tiếp tục được quan tâm đầu tư; công tác xã hội hóa giáo dục ngày càng mở rộng. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đã có sự tập trung ưu tiên cho các tiêu chí đảm bảo cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới, xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia. Thực hiện nghiêm túc công tác công khai, 11 kiểm định chất lượng giáo dục. Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý có tinh thần trách nhiệm, yêu nghề, có đạo đức nghề nghiệp, có ý chí vươn lên, tích cực học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Sở GDĐT đã tổ chức khen thưởng, động viên kịp thời các tập thể, cá nhân đạt thành tích cao trong các kỳ thi, cuộc thi.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, kiểm tra, đánh giá và quản lý được đẩy mạnh. Hệ thống cơ sở dữ liệu ngành giáo dục, hệ thống bồi dưỡng giáo viên trực tuyến được triển khai đồng bộ, hiệu quả, bảo đảm cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời cho cơ quan quản lý các cấp.
Hoạt động văn hóa thể dục thể thao
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức các hoạt động tuyên truyền chào mừng kỷ niệm Ngày Cách mạng Tháng Mười Nga 07/11; ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 09/11; ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc 18/11, ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, ngày Di sản văn hóa 23/11; các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn.
Tổ chức Lớp truyền dạy nghệ thuật Ca trù và ra mắt Câu lạc bộ Ca trù tỉnh chào mừng Ngày Di sản văn hóa Việt Nam 23/11/2023. Phối hợp với Khoa các khoa học liên ngành, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa học "Bảo vệ và phát huy giá trị di sản nghệ thuật trình diễn dân gian và nghệ thuật Chèo trong xã hội đương đại". Tổ chức liên hoan văn nghệ quần chúng các thôn, tổ dân phố văn hoá tiêu biểu tỉnh Thái Bình năm 2023. Tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề: Thái Bình - Dấu ấn thời bao cấp.
Tổ chức Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch năm 2023 tại các huyện: Vũ Thư, Kiến Xương, Đông Hưng. Tiếp nhận các tác phẩm dự thi cuộc thi sáng tác biểu trưng (Logo) tỉnh Thái Bình; cải tiến giao diện vận hành Cổng Du lịch thông minh và Ứng dụng du lịch thông minh trên điện thoại di động.
Tổ chức thành công đăng cai giải vô địch Yoga toàn quốc lần thứ V; tập huấn tham gia thi đấu 07 giải quốc gia (Vô địch Vật Cổ điển - Tự do; Vô địch Điền kinh; Vô địch Bơi lặn; Vô địch Karate; Vô địch Đua thuyền Rowing; Vô địch các vận động viên xuất sắc JuJitsu) Tham gia giải Bóng chuyền vô địch quốc gia các đội mạnh vòng II và vòng chung kết: Lọt vào vòng Tứ kết.
Tình hình an toàn giao thông
Theo báo cáo của Công an tỉnh trong tháng 11/2023 (tính từ ngày 15/10/2023 đến ngày 14/11/2023), trên địa bàn tỉnh xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 0 người chết và 12 người bị thương. Tính chung 11 tháng đầu năm toàn tỉnh xảy ra 118 vụ tai nạn giao thông, làm 66 người chết và 80 người bị thương.
Tình hình cháy nổ
Theo báo cáo từ Công an tỉnh, từ ngày 15/01/2023 đến ngày 15/11/2023, trên địa bàn tỉnh Thái Bình không xảy ra cháy, nổ./.