Tình hình kinh tế xã hội tháng 9, quý III và 9 tháng năm 2021 tỉnh Thái Bình

Thứ tư - 29/09/2021 03:12
Tình hình kinh tế xã hội tháng 9, quý III và 9 tháng năm 2021 tỉnh Thái Bình
         Tình hình kinh tế thế giới trong 9 tháng năm 2021 khi triển khai tiêm phòng vắc-xin nhanh chóng đã giúp giảm nhanh số ca lây nhiễm tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, tăng trưởng của các nền kinh tế cho thấy sự khác biệt do tốc độ triển khai vắc-xin và hỗ trợ chính sách khác nhau ở các quốc gia. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo kinh tế toàn cầu, với mức tăng trưởng 6,0% năm 2021.
        Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) giảm dự báo tăng trưởng năm 2021 của Hoa Kỳ, Nhật Bản lần lượt 6,0% và 2,2%, trong khi dự báo tăng trưởng của Trung Quốc (8,1%) và dự báo tăng trưởng của khu vực đồng Euro 4,6%.
        Tăng trưởng GDP của khu vực Đông Nam Á được ADB dự báo ở mức 3,1% trong năm 2021, giảm so với mức 4,4% đưa ra vào tháng 4/2021. Trong đó, ADB giảm dự báo tăng trưởng năm 2021 của hầu hết các nền kinh tế trong khu vực Đông Nam Á như In-đô-nê-xi-a (từ 4,5 xuống 3,5%), Ma-lai-xi-a (từ 6,0 xuống 4,7%), Thái Lan (từ 3,0% xuống 0,8%) và Việt Nam (từ 6,7% xuống 3,8%); không thay đổi dự báo của Phi-li-pin (4,5%); duy chỉ có Xin-ga-po được dự báo tăng so với báo cáo trước đây (từ 6,0% lên 6,5%).
        Tại Hội nghị xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư công năm 2022 tổ chức sáng 14/9/2021, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự kiến nếu dịch bệnh COVID-19 được kiểm soát tốt trong tháng 9/2021, chuyển sang trạng thái bình thường mới từ quý IV thì tăng trưởng kinh tế năm 2021 có thể đạt mức 3,5-4%.
Chín tháng đầu năm 2021, tình hinh kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh diễn ra trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 trên cả nước vẫn diến biến phức tạp và kéo dài.          Tuy nhiên, với sự vào cuộc của các cấp, các ngành và toàn xã hội, thời gian qua các địa phương trên địa bàn tỉnh đã chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp, xây dựng kịch bản thực hiện mục tiêu kép vừa bảo đảm phòng, chống dịch Covid-19 vừa nỗ lực sản xuất, kinh doanh, theo ước tính tại thời điểm 01/8/2021 của Tổng cục Thống kê tăng trưởng kinh tế GRDP cả năm 2021 của tỉnh đạt khoảng 5,75% so với năm 2020.
TÌNH HÌNH KINH TẾ                  
        Trên địa bàn tỉnh tình hình dịch bệnh được kiểm soát góp phần duy trì ổn định được hoạt động sản xuất kinh doanh; tuy nhiên, chịu sự tác động của tình hình trong nước và thế giới, cũng như các dòng chảy lưu thông hàng hóa và các hoạt động kinh tế - xã hội đứt gãy, gián đoạn; mặc dù vậy ước tính 9 tháng so với cùng kỳ năm trước giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản theo giá so sánh ước tăng 2,4%; công nghiệp 15%; xây dựng 5,5%; dich vụ 3,1%.
Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
       Sản xuất của khu vực nông, lâm, thủy sản 9 tháng năm 2021 gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, thời tiết diễn biến khó lường, giá cả thị trường không ổn định, dịch bệnh trên vật nuôi diễn biến phức tạp. Tuy nhiên với sự quan tâm, chỉ đạo tích cực của các cấp chính quyền, các cơ chế, chính sách hỗ trợ tiếp tục được triển khai mở rộng, các tiến bộ kỹ thuật công nghệ mới hiệu quả được áp dụng vào thực tiễn, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp nhất là hệ thống thủy lợi, giao thông nội đồng ngày càng hoàn thiện, do vậy nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đều tăng so với cùng kỳ.
 Nông nghiệp
Trồng trọt
Sản xuất vụ đông xuân
       Diện tích gieo cấy lúa vụ Đông Xuân năm 2021 đạt 76.532 ha, tăng 280 ha (+0,4%) so với vụ Đông Xuân năm 2020 do giảm được diện tích bỏ hoang, diện tích của một số doanh nghiệp tăng.
       Diện tích lúa dài ngày là 2.540,6 ha, chiếm 3,3%, các giống lúa ngắn ngày có diện tích 73.991,4 ha, chiếm 96,7% tổng diện tích lúa xuân. Giống lúa thuần có năng suất cao chiếm 61,75% gồm các giống lúa lai, Q5, BC15, TBR 45, TBR-1, Thiên ưu 8, TBR225, VN10...
        Các giống lúa có chất lượng gạo ngon (kể cả giống nếp dài ngày) có diện tích là 29.274,7 ha, chiếm 38,3% tổng diện tích lúa xuân. Năng suất lúa vụ Xuân năm 2021 đạt 71,01 tạ/ha tăng 0,3 tạ/ha (+0,4 %), sản lượng đạt 543 nghìn tấn, tăng 4 nghìn tấn (+0,8%) so với cùng kỳ năm trước.
       Diện tích gieo trồng các loại cây màu vụ đông xuân 2021 đạt 51.000 ha; trong đó, diện tích gieo trồng cây màu vụ đông đạt 36.354 ha, tăng 0,4%; diện tích gieo trồng cây màu vụ xuân đạt 14.646 ha, năng suất các loại cây trồng đạt tương đương năm 2020.
Sản xuất vụ mùa
        Diện tích gieo trồng vụ mùa năm 2021 đạt 92.403 ha, giảm 1.160 ha (-1,24%) so với vụ mùa năm 2020; trong đó, cây lương thực có hạt đạt 78.776 ha, giảm 1%; cây chất bột có củ đạt 291 ha, giảm 48,4%; cây có hạt chứa dầu đạt 1.061 ha, giảm 11,1%; rau, đậu, hoa các loại đạt 11.479 ha, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2020.
        Diện tích gieo cấy lúa vụ mùa đạt 76.664 ha, các địa phương đã tập trung gieo cấy vào một số giống có giá trị và năng suất cao, cụ thể: Các giống lúa có chất lượng gạo ngon (kể cả giống nếp dài ngày) có diện tích 22.838 ha, chiếm 29,8% tổng diện tích lúa mùa. Giống lúa thuần có năng suất cao chiếm 70,2% gồm các giống lúa lai, Q5, BC15, TBR45,... Các địa phương trong toàn tỉnh đã gieo cấy xong lúa mùa trước tháng 8/2021, đúng với lịch thời vụ của tỉnh đề ra. Thời điểm lúa mùa trỗ bông đại trà khoảng từ ngày 05/9 đến ngày 15/9, lúa mùa đại trà đang ở giai đoạn làm đòng, lúa mùa sinh trưởng và phát triển tốt. Công tác phòng trừ sâu bệnh hại lúa đã được Lãnh đạo UBND tỉnh, Sở NN&PTNN chỉ đạo quyết liệt. Đến thời điểm 16/9/2021 diện tích lúa Mùa đã trỗ bông là 67.898 ha chiếm 88,5% tổng diện tích lúa Mùa đã gieo cấy. Theo báo cáo ước tính từ các địa phương, dự kiến năng suất lúa vụ mùa năm nay đạt khá, khoảng đạt 60,6 tạ/ha.
Sản xuất cây lâu năm
        Diện tích cây lâu năm hiện có ước đạt 8.157 ha, tăng 0,2% (+16 ha) so với cùng kỳ năm 2020. Cây ăn quả là cây trồng chiếm tỷ trọng lớn nhất đạt 5.809 ha, chiếm 71,2% tổng diện tích, giảm 0,05% (-3 ha) so với cùng kỳ.
Chín tháng năm 2021, thời tiết thuận lợi cho cây lâu năm đặc biệt là các loại cây ăn quả phát triển tương đối tốt và cho năng suất cao. Uớc tính sản lượng một số cây ăn quả chính đều tăng so với cùng kỳ năm 2021 như: chuối 57,8 nghìn tấn, tăng 0,6%; xoài ước đạt 2,7 nghìn tấn, tăng 1,3%; hồng xiêm 3,5 nghìn tấn, tăng 2%; ổi 2,2 nghìn tấn, tăng 4,5%; vải 2,6 nghìn tấn, tăng 11,4%; thanh long 3,4 nghìn tấn, tăng 14,2%… Một số mô hình trang trại trồng chuối; thanh long ruột đỏ, mít ruột đỏ,…đã cho thu hoạch với năng suất cao.
Chăn nuôi
Chăn nuôi gia súc: Tổng đàn trâu, bò tại thời điểm tháng tháng 9/2021 ước đạt 56,8 nghìn con, tăng 1,3% so với cùng kỳ; trong đó đàn trâu ước đạt 6,3 nghìn con, tăng 3,7%; đàn bò ước đạt 50,5 nghìn con, tăng 1% so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng thịt trâu, thịt bò hơi xuất chuồng tháng 9/2021 ước đạt 848 tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ; trong đó sản lượng thịt trâu hơi ước đạt 73 tấn, tăng 2,8%; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước đạt 775 tấn, tăng 5,4% so với cùng kỳ.
       Tính chung 9 tháng năm 2021 sản lượng thịt trâu, thịt bò hơi xuất chuồng ước đạt 7.577 tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ; trong đó sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 642 tấn, tăng 4,4% ; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước đạt 6.935 tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ.
Chăn nuôi lợn: tháng 9 tình hình dịch bệnh cơ bản đã được kiểm soát, việc phát triển đàn lợn trong thời gian qua đã có tín hiệu tốt, quy mô đàn lợn trong quý III đã có biến động tăng mạnh, tuy nhiên quy mô tái đàn nuôi vẫn chỉ dừng lại ở các cơ sở chăn nuôi trang trại và gia trại, đảm bảo chất lượng con vật nuôi an toàn sinh học; đối với các hộ chăn nuôi nhỏ vẫn chưa phát triển nhiều do giá cả thị trường con giống vẫn ở mức cao và khan hiếm.
       Ước tính tổng đàn lợn tại thời điểm tháng 9/2021 đạt 684 nghìn con, tăng 5,6% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tháng 9/2021 ước đạt 13,2 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý III/2021 ước đạt 44,2 nghìn tấn, tăng 25,4% so với quý trước và tăng 2,6% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2021 sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 118,9 nghìn tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm 2020.
Chăn nuôi gia cầm dịch bệnh ít xảy ra, đàn gia cầm duy trì ổn định. Ước tính tồng đàn gia cầm tại thời điểm tháng 9/2021 đạt 14,1 triệu con, tăng 0,6%; trong đó đàn gà đạt 10,4 triệu con, tăng 0,7% so với cùng kỳ.
       Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng tháng 9/2021 ước đạt 5,3 nghìn tấn, tăng 0,2% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2021 sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 47,2  nghìn tấn, tăng 0,2% so với cùng kỳ; trong đó sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng đạt 37,2 nghìn tấn, tăng 0,1%; sản lượng trứng gia cầm đạt 221,1 triệu quả, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm 2020.
Lâm nghiệp
       Chín tháng năm 2021 đã trồng mới được 38,3 ha rừng phòng hộ, tăng 85,1%; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 1.692 m, giảm 0,3%; sản lượng củi khai thác ước đạt 6.075 ste, giảm 2,2%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 1.358 nghìn cây, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm 2020.
Thuỷ sản
       Trong 9 tháng đầu năm, tình hình thời tiết tương đối ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khai thác và nuôi trồng. Công tác vệ sinh phòng trừ dịch bệnh được quan tâm thực hiện thường xuyên nên dịch bệnh phát sinh ở mức độ nhẹ không đáng kể; chủng loại và chất lượng giống thủy sản nuôi trồng ngày càng phong phú, phù hợp với điều kiện mặt nước nuôi trồng trên địa bàn tỉnh.
Tổng sản lượng thủy sản tháng 9/2021 ước đạt 25,8 nghìn tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 10,4 nghìn tấn, giảm 0,7%; tôm đạt 1,1 nghìn tấn, giảm 0,7%; thuỷ sản khác đạt 14,3 nghìn tấn, tăng 4,1%.
       Tổng chung 9 tháng năm 2021 tổng sản lượng thủy sản ước đạt 197,2 nghìn tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 79,2 nghìn tấn, tăng 3,1%; tôm đạt 4,8 nghìn tấn, tăng 3,7%; thuỷ sản khác đạt 113,2 nghìn tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ.
Khai thác
       Sản lượng khai thác tháng 9/2021 ước đạt 7,6 nghìn tấn, giảm 2% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 5,5 nghìn tấn, giảm 4,4%; tôm đạt 0,2 nghìn tấn, tăng 4,3%; thủy sản khác đạt 1,9 nghìn tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ. Sản lượng khai thác quý III/2021 ước đạt 21,6 nghìn tấn, giảm 18,3% so với quý trước và tăng 0,4% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 15,6 nghìn tấn, giảm 5,5% so với quý trước và giảm 0,8% so với cùng kỳ; tôm đạt 0,7 nghìn tấn, tăng 1,5 lần và tăng 3,5% so với cùng kỳ; thủy sản khác đạt 5,3 nghìn tấn, giảm 45,1% so với quý trước và tăng 3,4% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2021 sản lượng khai thác ước đạt 73 nghìn tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 47,6 nghìn tấn, tăng 3%; tôm đạt 1,4 nghìn tấn, tăng 3,1%; thủy sản khác đạt 24 nghìn tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ.
Nuôi trồng
        Tình hình thời tiết trong 9 tháng đầu năm tương đối thuận lợi, nhiệt độ thích hợp cho nuôi trồng thủy sản. Nuôi nước mặn (nuôi ngao) phát triển khá; nuôi nước lợ (tôm, cá) phát triển ổn định, đến thời điểm này tôm sú đang vào mùa thu hoạch rộ, tôm thẻ chân trắng bắt đầu nuôi thả vụ 2. Sản lượng nuôi trồng đạt mức khá, trong đó tôm thẻ chân trắng cho năng suất và sản lượng tăng cao so với cùng kỳ do các doanh nghiệp và các hộ nuôi mở rộng diện tích nuôi theo hình thức công nghệ cao.
        Sản lượng nuôi trồng thủy sản tháng 9/2021 ước đạt 18,1 nghìn tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 4,8 nghìn tấn, tăng 4%; tôm đạt 0,8 nghìn tấn, giảm 2%. Tính chung 9 tháng năm 2021 sản lượng nuôi trồng ước đạt 124,2 nghìn tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 31,5 nghìn tấn, tăng 3,4%; tôm đạt 3,4 nghìn tấn, tăng 4%; thủy sản khác đạt 89,3 nghìn tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ.
        Mô hình nuôi cá lồng trên sông tiếp tục được phát triển về số lượng lồng nuôi; đối tượng nuôi ngày càng đa dạng đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của người dân trong và ngoài tỉnh, chủ yếu gồm các loại có giá trị cao như: cá diêu hồng, cá trắm, cá chép, cá lăng… ; năng suất thu hoạch bình quân đạt trên 4-5 tấn/lồng; hiện một số hộ nuôi đang thử nghiệm nuôi các đối tượng mới có giá trị kinh tế cao như cá hô, cá tra, hàu… Sản lượng cá lồng đã góp phần đáng kể vào kết quả tăng trưởng và phát triển của ngành thủy sản năm 2021. Ước tính sản lượng cá nuôi lồng bè trong 9 tháng đạt 1,7 nghìn tấn, tăng 3,5% so cùng kỳ.
 Sản xuất công nghiệp
        Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tỉnh Thái Bình tháng 9/2021 tăng 1,1% so tháng 8/2021, tăng 17,4% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành Khai khoáng tăng 5,5% so với tháng trước; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,7%, Sản xuất và phân phối điện đạt 97,8%, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải đạt 99,7%.
        Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2021 tăng 13,4% so 9 tháng năm 2020; trong đó Khai khoáng tăng 3,7%, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,8%, sản xuất và phân phối điện tăng 3,7%, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải nước thải tăng 11,2%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu
        Ngành sản xuất đồ uống giảm do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, sản phẩm bia hơi 9 tháng đầu năm 2021 ước đạt 9.352 nghìn lít bằng 82,6 % so cùng kỳ năm 2020; sản phẩm bia chai 9 tháng ước đạt 8.532 nghìn lít, bằng 69,4% so cùng kỳ; sản phẩm bia lon 9 tháng đầu năm ước đạt 23.927 nghìn lít, bằng 88,5% so cùng kỳ  tương ứng giảm sản lượng 3.119 nghìn lít.
       Ngành sản xuất ba lô, giầy da: Sản phẩm ba lô tháng 9/2021 ước đạt 410 nghìn chiếc tăng 1,7% so tháng 8/2021, ước tính 9 tháng/2021 sản phẩm ba lô đạt 3.805 nghìn cái, bằng 80,7% so cùng kỳ năm 2020. Sản phẩm giầy da tháng 9/2021 ước đạt 2.394 nghìn đôi tăng 1,7% so tháng 8/2021, cộng dồn 9 tháng sản phẩm giầy da ước đạt 20.048 nghìn đôi, tăng 73,7% so cùng kỳ.
      Một số sản phẩm có sản lượng 9 tháng tăng cao so cùng kỳ như: Tàu đánh bắt thuỷ hải sản, các loại tàu chuyên dụng (+276%); Cần gạt nước, sương, tuyết trên kính chắn (+231%); túi khí an toàn (+120%); Phụ tùng khác của xe có động cơ (+91,3%); Bộ đèn sử dụng cho cây NOEL (+70%); Loa đã hoặc chưa lắp vào hộp loa (+46,7),... Bên cạnh đó một số sản phẩm có sản lượng giảm mạnh như: thức ăn cho gia súc (-58%); Bia chai (- 69,4%).
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tính đến 01/9/2021 đạt 96,1% so tháng 8/2021 và tăng 14,9% so cùng kỳ.
Chỉ số tồn kho Tính đến tháng 9/2021, chỉ số tồn kho ngành chế biến chế tạo tăng 6,9% so tháng trước ở một số ngành như: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 81,1%, sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 20,5%, sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 7%, sản xuất sản phẩm từ cao du tăng 7,2%, sản xuất kim loại tăng 70,5%, sản xuất trang phục tăng 3,4%...Tuy nhiên một số ngành có chỉ số tồn kho giảm như: chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre nứa giảm 48,7%, sản xuất hóa chất và sản phẩm từ hóa chất giảm 5,5%, sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 36,6%... Chỉ số tồn kho tháng 9/2021 so cùng kỳ đạt 88,1%: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 72,7%, dệt giảm 6,8%, chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, tre nứa giảm 69,6%, sản xuất thuốc, hóa dược liệu giảm 50,3%.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm tháng 9/2021 tăng 1,1% so tháng trước và tăng 4,1% so với cùng kỳ. Theo loại hình kinh tế Doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 1,4% và tăng 6,7% so cùng kỳ, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,8% so tháng trước và tăng 0,8% so cùng kỳ.
       Qua khảo sát thực tế xu hướng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chế biến, chế tạo quý III/2021: Xu hướng tổng quan về tình hình sản xuất kinh doanh chế biến, chế tạo toàn ngành công nghiệp chế biến chế tạo số doanh nghiệp có tình trạng sản xuất tốt lên là 26,5%, giữ nguyên là 56%, khó khăn hơn là 17,5% so với Quý II/2021.
       Dự tính tình hình sản xuất quý IV năm 2021: tỷ lệ doanh nghiệp sản xuất tốt lên chiếm 4,3%, giữ nguyên chiếm 55,2% và khó khăn hơn chiếm 40,5% so với Quý III/2021.
Đầu tư – xây dựng
 Đầu tư
       Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước tháng 9/2021 ước đạt 560 tỷ đồng, tăng 12,1 % so tháng trước và tăng 4,1% so cùng kỳ năm 2020. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước quý III/2021 ước đạt 1.527 tỷ đồng, tăng 33,3% so quý trước và tăng 7,1% so cùng kỳ. Vốn Ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 939 tỷ đồng, tăng 11,9 % so với cùng kỳ; trong đó vốn cân đối ngân sách tỉnh ước đạt 591 tỷ đồng, tăng 112% so cùng kỳ; vốn ngân sách huyện ước đạt 385 tỷ đồng, tăng 8,8% so cùng kỳ; vốn ngân sách cấp xã ước đạt 203 tỷ đồng, bằng 84,4% so cùng kỳ.
       Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước 9 tháng ước đạt 3.541 tỷ đồng, tăng 7,6% so cùng kỳ. Vốn Ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 2.004 tỷ đồng, tăng 10%; trong đó vốn cân đối ngân sách tỉnh ước đạt 1.344 tỷ đồng, tăng 49,1% so với cùng kỳ ; vốn ngân sách huyện ước đạt 1.012 tỷ đồng, tăng 35,6%; vốn ngân sách cấp xã ước đạt 524 tỷ đồng, bằng 72,6 % so cùng kỳ.
       Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 9 tháng đầu năm ước đạt 37.377 tỷ đồng, tăng 7,0% so cùng kỳ. Trong đó: Vốn đầu tư thuộc nguồn vốn nhà nước nhà nước ước đạt 3.541 tỷ đồng, tăng 7,1%; vốn đầu tư khu vực dân cư và tư nhân ước đạt 24.122 tỷ đồng, tăng 5,1%; vốn đầu tư khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện 2.897 tỷ đồng, tăng 28,8% so cùng kỳ.
Một số dự án trọng điểm thi công trong quý III năm 2021
       Dự án xây dựng nhà máy Nhiệt điện 2 Thái Bình, dự kiến đạt 1825 tỷ đồng;
       Dự án nâng cấp, cải tạo đường 217 (ĐT.396B) từ cầu Hiệp đến Quốc lộ 39, giai đoạn 2: Từ cầu Quốc lộ 10 đến Quốc lộ 39, sơ bộ 9 tháng ước đạt hơn 100 tỷ đồng;
       Dự án đường Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường ĐT.454 (đường 223) từ Thành phố Thái Bình đến cầu Sa Cao, vốn đầu tư 9 tháng ước đạt 99 tỷ;
       Dự án đầu tư xây dựng các tuyến đường trục kết nối với các khu chức năng trong Khu kinh tế Thái Bình tại các huyện Tiền Hải, Thái Thụy, Kiến Xương, vốn đầu tư 9 tháng ước đạt 15 tỷ;
       Dự án xây dựng đường vành đai phía Nam thành phố Thái Bình, đoạn từ cầu ngang S1 đến đường Chu Văn An kéo dài, vốn đầu tư 9 tháng ước đạt 10 tỷ đồng;
       Dự án ĐTXD tuyến đường ĐT.455 (đường 216 cũ) đoạn từ đường Thái Bình - Hà Nam đến đường vào UBND xã Tây Đô, huyện Hưng Hà, vốn đầu tư thực hiện 9 tháng ước đạt 40 tỷ đồng; 
       Dự án ĐTXD công trình tuyến đường từ thành phố Thái Bình qua cầu Tịnh Xuyên đến huyện Hưng Hà, vốn đầu tư thực hiện ước đạt 134 tỷ đồng; 
      Dự án Cải tạo, nâng cấp đường tránh trú bão, cứu hộ cứu nạn, phát triển kinh tế biển và đảm bảo ANQP ven biển phía Nam tỉnh Thái Bình (đường 221A), vốn đầu tư 9 tháng ước đạt 146 tỷ đồng;
       Dự án nâng cấp, cải tạo tuyến đường cứu hộ, cứu nạn ĐH.91 từ xã Thái Giang đi xã Thái Dương (đấu nối với QL.39), huyện Thái Thụy - giai đoạn 2, vốn đầu tư 9 tháng ước đạt 87 tỷ đồng;
       Dự án Tuyến đường ĐT.455 (đường 216 cũ), đoạn từ Quốc lộ 10 đến đường ĐT.456, GĐ1: Đoạn từ Quốc lộ 10 đến xã An Dục, huyện Quỳnh Phụ, vốn đầu tư thực hiện 9 tháng ước đạt 5 tỷ; 
       Dự án Cải tạo nâng cấp đường ĐT.452 (đường 224 cũ), GĐ1: Đoạn từ ngã tư La đến đường nối hai tỉnh Thái Bình – Hà Nam, vốn đầu tư 9 tháng ước đạt 77 tỷ đồng;
       Dự án Cải tạo nâng cấp đường ĐT.452 (đường 224 cũ), GĐ1: Đoạn từ ngã tư La đến đường nối hai tỉnh Thái Bình – Hà Nam, vốn đầu tư 9 tháng ước đạt 77 tỷ đồng;
      Dự án Đường quy hoạch số 2 Khu đô thị Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình, đoạn từ Quảng trường Thái Bình (đường quy hoạch số 7) đến doanh trại Sở Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh (đường quy hoạch số 5), vốn đầu tư thực hiện 9 tháng ước đạt 15 tỷ đồng;
      Dự án Cải tạo, nâng cấp tuyến đường ĐT.455 (đường 216 cũ) đoạn từ xã Quỳnh Nguyên đến xã Quỳnh Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, vốn đầu tư thực hiện 9 tháng ước đạt 29 tỷ;
      Dự án tuyến đường nối từ thành phố Thái Bình đến cầu Nghìn (BOT), vốn đầu tư thực hiện ước đạt 387 tỷ đồng;
      Dự án Tuyến đường tỉnh 454 (đường 223) đoạn từ đường Trần Thái Tông đến nút giao với Quốc lộ 10 tại khu công nghiệp TBS Sông Trà, theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT), vốn đầu tư thực hiện 9 tháng ước đạt 120 tỷ đồng;
       Dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển đoạn qua địa bàn thành phố Hải Phòng và 9km trên địa bàn tỉnh Thái Bình thực hiện hơn 249 tỷ đồng.
Xây dựng
       Tình hình thực hiện dự án 9 tháng đầu năm 2021, rất nhiều dự án công trình trọng điểm của tỉnh được tiếp tục triển khai, tuyến đường bộ ven biển, dự án cầu Sông Hóa Hải Phòng- Thái Bình, Dự án tuyến đường từ Thành phố Thái Bình đi cầu Nghìn. Một số dự án FDI được khởi công trong quý: Dự án nhà máy sản xuất tấm Mô đun pin năng lượng mặt trời của công ty CHINA NEW ENERGY INDUSTRY GROUP LIMITED; dự án nhà máy Lotes sản xuất chân kết nối Ram máy tính: Dự án sản xuất linh phụ kiện từ nhựa 100 triệu sản phẩm/năm và linh kiện kim loại 8.421 nghìn sản phẩm/năm của công ty TNHH Greenworks Việt Nam; Dự án nhà máy Sản xuất phụ kiện gia đình, phòng tắm, đèn chiếu của công ty Jeanson Industrial Limited. Tuy nhiên, do công tác giải phòng mặt bằng và nguồn vốn đầu tư gặp nhiều khó khăn, các thủ tục ràng buộc giữa doanh nghiệp thi công và chủ đầu tư chưa được tháo gỡ, thống nhất.
Tình hình đăng ký kinh doanh
       Tính đến đầu tháng 9 năm 2021 đã cấp 575 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, 49 chi nhánh, 7 văn phòng đại diện với số vốn đăng ký đạt trên 5.355 tỷ đồng. Xác nhận Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 236 doanh nghiệp; doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là 61 doanh nghiệp, trong đó thu hồi GCN ĐKKD do DN giải thể là 60 doanh nghiệp, Doanh nghiệp tổ chức lại là 01 doanh nghiệp.
       *Trong tháng 9/2021 trên địa bàn tỉnh có 3 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài do nhà đầu tư  Hong Kong, Đài Loan đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 394 triệu USD. Tính chung 9 tháng có 04 dự án đăng ký mới với tổng số vốn đăng ký là 412 triệu USD.
Thương mại, dịch vụ và giá cả
      Tình hình thị trường hàng hóa tỉnh Thái Bình tháng 9/2021 có xu hướng tăng trở lại sau ảnh hường bởi dịch, mặc dù là tỉnh không có dịch xảy ra nhưng do ảnh hưởng từ tình hình dịch chung trên cả nước nên cuối tháng 8 và đầu tháng 9 tỉnh đã thực hiện một số biện pháp giãn cách đã ảnh hưởng tới doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
       Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9 năm 2021 ước đạt 4.123 tỷ đồng, tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 9% so với cùng kỳ năm trước.
       Theo ngành kinh tế, doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 9/2021 ước đạt 3.725 tỷ đồng, tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 12,8% so với cùng kỳ. Hầu hết các nhóm hàng đều tăng so với tháng trước như: Nhóm ô tô con tăng 37,7%; nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 20,9%; nhóm phương tiện đi lại tăng 11,4%; nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 11,1%; nhóm hàng may mặc tăng 4,6%;… Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 5 tỷ đồng, giảm 45,4% so với tháng trước và giảm 43,8% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 185 tỷ đồng, giảm 22% so với tháng trước và giảm 17,2% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 208 tỷ đồng, tăng 4,4% so với tháng trước và giảm 16,1% so với cùng kỳ; riêng dịch vụ lữ hành trong tháng phải tạm ngừng hoạt động do ảnh hưởng từ dịch.
       Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2021 ước đạt 36.559 tỷ đồng, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước.
      Theo ngành kinh tế, doanh thu bán lẻ hàng hóa 9 tháng năm 2021 ước đạt 32.574 tỷ đồng, tăng 9% so với cùng kỳ. Hầu hết nhóm hàng có giá trị lớn đều tăng so với cùng kỳ như: Nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 11.140 tỷ đồng (chiếm 34,2%), tăng 11,9%; nhóm xăng dầu các loại ước đạt 5.359 tỷ đồng (chiếm 16,5%), tăng 8,4%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 5.179 tỷ đồng (chiếm 15,9%), tăng 20,3%; nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình ước đạt 3.946 tỷ đồng (chiếm 12,1%), tăng 0,1%; nhóm hàng hóa khác ước đạt 2.228 tỷ đồng (chiếm 6,8%), tăng 4,1%; nhóm hàng may mặc ước đạt 1.287 tỷ đồng (chiếm 4%), tăng 17,6%;…
       Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành 9 tháng năm 2021 ước đạt 2.036 tỷ đồng, giảm 3,3% so với cùng kỳ do ảnh hưởng của 3 đợt dịch: Cuối tháng 01/2021 dịch bùng phát trở lại, mặc dù là tỉnh không có ca nhiễm nhưng tạo tâm lý người dân hạn chế ăn uống ngoài gia đình, bên cạnh đó việc triển khai cao độ thực hiện Nghị định 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ, nhiều cơ sở ăn uống nghỉ kinh doanh từ ngày 29 tết và hoạt động trở lại vào ngày mồng 2 tết; đến đầu tháng 5/2021 dịch diễn biến phức tạp, tại Thái Bình xuất hiện các ca nhiễm, phải thực hiện giãn cách xã hội đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động lưu trú, ăn uống, lữ hành; cuối tháng 8/2021 trước diễn biến phức tạp của dịch tại một số tỉnh, Thái Bình tiếp tục thực hiện giãn cách, hàng ăn uống chỉ bán mang về, không đón tiếp khách đối với nhà nghỉ, khách sạn từ đầu tháng 9 đến 15/9. Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 82 tỷ đồng, giảm 5,8%; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 1.953 tỷ đồng, giảm 2,9%; doanh thu dịch vụ lữ hành ước đạt 1 tỷ đồng, giảm 86,6% so với cùng kỳ.
       Doanh thu dịch vụ khác ước đạt 1.949 tỷ đồng, giảm 8,5% so với cùng kỳ, là nhóm chịu tác động lớn từ dịch bệnh trong 9 tháng năm 2021 nhiều hội nghị, đám hỷ ngừng tổ chức, vui chơi giải trí chủ yếu thu từ hoạt động xổ số trong đó: Dịch vụ giáo dục và đào tạo giảm 41,2%; dịch vụ nghệ thuật vui chơi và giải trí giảm 24,4%; dịch vụ sửa chữa giảm 14%; dịch vụ hành chính và hỗ trợ giảm 8,3%.
Giá tiêu dùng
      Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 năm 2021 giảm 0,26% so với tháng trước; tăng 0,05% so với cùng tháng năm trước; tăng 1,21% so với tháng 12 năm trước. Một số nguyên nhân tác động đến chỉ số giá tháng 9: giá lợn hơi giảm kéo theo giá thịt lợn thành phẩm giảm, do lượng lợn hơi dồi dào và chủ yếu tiêu thụ nội địa. Nhóm giao thông giảm 0,64% (ảnh hưởng giảm giá xăng dầu từ tháng 8), mặc dù  ngày 11/09/2021 Công ty TNHH MTV xăng dầu Thái Bình đã áp dụng mức tăng giá bán lẻ các mặt hàng, giá xăng 95 tăng 260 đồng/lít; giá xăng E5 tăng 270 đồng/lít; giá dầu diezen 0,05 tăng 360 đồng/lít; giá dầu hỏa tăng 320 đồng/lít. Nhìn chung giá cả các mặt hàng trong tháng tương đối ổn định, dưới tác động của dịch bệnh nhiều mặt hàng bị chi phối bởi giá cước vận chuyển nên giá bán lẻ có tăng nhẹ, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 2 nhóm hàng có chỉ số giá tăng và 5 nhóm có chỉ số giá giảm, 4 nhóm ổn định so tháng 8/2021.
       CPI bình quân 9 tháng giảm 0,04% so với cùng kỳ năm trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có 7 nhóm hàng có chỉ số giá giảm: chỉ số nhóm văn hóa, giải trí du lịch giảm 3,72% do ảnh hưởng của dịch nên các tour du lịch phải ngừng; chỉ số nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 2,27% ảnh hưởng lớn từ giá thịt lợn hơi giảm kéo theo giá thịt lợn thành phẩm giảm; chỉ số nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 1,39%; chỉ số giá nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,32%; chỉ số giá nhóm thiết bị đồ dùng gia đình giảm 0,26%; chỉ số giá nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,20%; chỉ số giá nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép giảm 0,07%. Còn lại 4 nhóm có chỉ số tăng: chỉ số giá nhóm giao thông tăng 9,76% do giá xăng dầu tăng; chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 6,25%; chỉ số giá nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,36%; chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03%.
Xuất nhập khẩu hàng hoá
      Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 9 năm 2021 ước đạt 409 triệu USD, giảm 5,2% so với tháng trước và tăng 62,2% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 2.933 triệu USD, tăng 45,5% so với cùng kỳ; trong đó xuất khẩu đạt 1.578 triệu USD, tăng 45%; nhập khẩu đạt 1.355 triệu USD, tăng 46,2%.
Xuất khẩu:
     Kim ngạch xuất khẩu tháng 9/2021 ước đạt 236 triệu USD, giảm 5,8% so với tháng trước và tăng 68,6% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu tháng 9/2021 tăng cao so với cùng kỳ do một số đơn hàng từ vùng dịch được chuyển về cho doanh nghiệp tại Thái Bình sản xuất chủ yếu là hàng may mặc và giày dép, giá sắt thép biến động tăng nên doanh nghiệp không bán nội địa mà chuyển xuất khẩu. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 127 triệu USD, giảm 2,5% so với tháng trước và tăng 46,6% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 108 triệu USD, giảm 9,5% so với tháng trước và tăng gấp đôi so với cùng kỳ. Hầu hết các mặt hàng đều tăng cao so với cùng kỳ như: Giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 34,6 lần; sản phẩm từ sắt thép tăng 15,6 lần; sản phẩm mây, tre cói và thảm tăng 9,9 lần; sắt thép tăng 3,8 lần; sản phẩm gỗ tăng 1,9 lần; xơ, sợi dệt các loại tăng 1,4 lần; hàng dệt may tăng 42,3%;...
      Về thị trường xuất khẩu hàng hóa tháng 9/2021, Hán Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của tỉnh với kim ngạch đạt 32 triệu USD, chiếm tỷ trọng 13,7%; tiếp đến là Mỹ đạt 31 triệu USD, chiếm 13,2%; Trung Quốc đạt 24,7 triệu USD, chiếm 10,5%; Nhật Bản đạt 23,6 triệu USD, chiếm 10%.
Tính chung 9 tháng năm 2021, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1.578 triệu USD, tăng 45% so với cùng kỳ. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 808 triệu USD, tăng 30,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 770 triệu USD, tăng 64,3% so với cùng kỳ. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước như: Sắt thép tăng 7,5 lần; sản phẩm mây, tre, cói và thảm tăng 2,2 lần; sản phẩm từ sắt thép tăng 1,2 lần; xơ, sợi dệt các loại tăng 95,3%; giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 80,6%;... Bên cạnh đó một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ như: Xăng dầu giảm 73%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 55,2%; sản phẩm gốm sứ giảm 8,7%.
Nhập khẩu:
     Kim ngạch nhập khẩu tháng 9/2021 ước đạt 173 triệu USD, giảm 4,2% so với tháng trước và tăng 54,4% so với cùng kỳ. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 98 triệu USD, giảm 5,3% so với tháng trước và tăng 81,7% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 75 triệu USD, giảm 2,8% so với tháng trước và tăng 29,1% so với cùng kỳ. Hầu hết các mặt hàng đều tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Hàng thủy sản tăng 6,5 lần;  máy móc, thiết bị phụ tùng khác tăng 2 lần; hóa chất tăng 1,2 lần; chất dẻo nguyên liệu tăng 1,1 lần; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giầy tăng 1,1 lần; xăng dầu các loại tăng 73,7%;... Bện cạnh đó một số mặt hàng giảm: Bông các loại giảm 49,3%; phế liệu sắt thép giảm 42,5%.
Tính chung 9 tháng năm 2021, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 1.355 triệu USD, tăng 46,2% so với cùng kỳ. Phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 752 triệu USD, tăng 49,7%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 603 triệu USD, tăng 42,1% so với cùng kỳ. Hầu hết các mặt hàng chủ lực có giá trị lớn đều tăng so với cùng kỳ năm trước như: Vải các loại đạt 351,7 triệu USD (chiếm 26%), tăng 50,2%; nguyên phụ liệu dệt, may, da giày đạt 221,8 triệu USD (chiếm 16,4%), tăng 77%; xăng dầu đạt 324,7 triệu USD (chiếm 24%), tăng 35%; phế liệu sắt thép đạt 168,6 triệu USD (chiếm 12,4%), tăng 43,2%;…Một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ như: Chất dẻo nguyên liệu (-40,7%); sắt thép các loại (-9,1%); hàng thủy sản (-1,1%).
Hoạt động vận tải
       Dịch Covid-19 vẫn diến biến phức tạp tại một số địa phương trong cả nước; thực hiện công tác phòng chống dịch, để đảm bảo địa bàn an toàn với dịch bệnh, các phương tiện vận tải đi và đến tỉnh Thái Bình được kiểm soát chặt chẽ. Hoạt động vận tải hành khách liên tỉnh trong tình trạng tối giảm công suất, hoạt động vận tải hành khách chủ yếu trong nội tỉnh, do vậy hoạt động vận tải hành khách trong tháng có xu hướng giảm.
Vận tải hành khách
       Doanh thu vận tải hành khách tháng 9/2021 ước đạt 80 tỷ đồng, giảm 1,5% so với tháng trước và giảm 43,2% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 1,1 triệu người, giảm 0,9% so với tháng trước và giảm 41,4% so với cùng kỳ; số lượt khách luân chuyển ước đạt 126,4 triệu người.km, tăng 0,2% so với tháng trước và giảm 43,1% so với cùng kỳ.
        Doanh thu vận tải hành khách quý III/2021 ước đạt 257 tỷ đồng, giảm 27,3% so với quý trước và giảm 36,5% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 3,6 triệu người, giảm 24,6% so với quý trước và giảm 33,9% so với cùng kỳ; số lượt khách luân chuyển ước đạt 405,5 triệu người.km, giảm 25,4% so với quý và giảm 35,7% so với cùng kỳ.
       Tính chung 9 tháng năm 2021, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 1.054 tỷ đồng, giảm 5,3% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 14,4 triệu người, giảm 5%; số lượt khách luân chuyển ước đạt 1.610 triệu người.km, giảm 5,4% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hoá
        Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 9/2021 ước đạt 330 tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng trước và giảm 11% so với cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 2 triệu tấn, tăng 2,5% so với tháng trước và giảm 10,3% so với cùng kỳ. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 766,6 triệu tấn.km, tăng 2,6% so với tháng trước và giảm 12,7% so với cùng kỳ.
       Doanh thu vận tải hàng hóa quý III/2021 ước đạt 982 tỷ đồng, giảm 1,4% so với quý trước và giảm 7,3% so với cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 5,8 triệu tấn, giảm 2,2% so với quý trước và giảm 7,3% so với cùng kỳ. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 2.277 triệu tấn.km, giảm 0,6% so với quý trước và giảm 9% so với cùng kỳ.
       Tính chung 9 tháng năm 2021, doanh thu vận tải hàng hoá ước đạt 3.099 tỷ đồng, tăng 4% so với cùng kỳ. Trong đó: vận tải hàng hóa đường bộ ước đạt 1.715 tỷ đồng, tăng 5,6%; vận tải hàng hóa đường ven biển và viễn dương đạt 1.168 tỷ đồng, tăng 1,4%; vận tải hàng hóa đường thủy nội địa đạt 216 tỷ đồng, tăng 5,5%. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 18,7 triệu tấn, tăng 4,2%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 7.050 triệu tấn.km, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước.
 Dịch vụ hỗ trợ vận tải, bưu chính chuyển phát
      Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 9/2021 ước đạt 4,7 tỷ đồng, giảm 1,8% so với tháng trước và giảm 7% so với cùng kỳ; quý III/2021 ước đạt 14,4 tỷ đồng, giảm 5% so với quý trước và giảm 2,4% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2021 ước đạt 44,7 tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ.
      Doanh thu bưu chính chuyển phát tháng 9/2021 ước đạt 0,4 tỷ đồng, tăng 1,9% so với tháng trước và giảm 1,3% so với cùng kỳ; quý III/2021 ước đạt 1,2 tỷ đồng, giảm 12,8% so với quý trước và tăng 5,7% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2021 ước đạt 4 tỷ đồng, tăng 18,5% so với cùng kỳ.
Thu, chi Ngân sách Nhà nước
      Tổng thu ngân sách Nhà nước ước tính 9 tháng năm 2021 đạt 15.614,4 tỷ đồng, đạt 106,7% so với dự toán, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa ước đạt 6.772,2 tỷ đồng, tăng 51,4%; thu thuế xuất, nhập khẩu ước đạt 1.348,7 tỷ đồng, tăng 57,9%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt 5.310,1 tỷ đồng, giảm 12,5%.
       Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 9 tháng năm 2021 ước đạt 9.877,8 tỷ đồng, giảm 2,8%; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt 5.281,4 tỷ đồng, tăng 3,5% so với cùng kỳ.
TÌNH HÌNH VĂN HÓA XÃ HỘI
Lao động và việc làm
       Theo Báo cáo của Sở Lao động thương binh và Xã hội, Sở đã tiếp nhận thông báo của 06 doanh nghiệp đăng ký tuyển lao động của tỉnh đưa đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, nâng số doanh nghiệp đăng ký tuyển chọn lao động trên địa bàn tỉnh lên 34 doanh nghiệp. Trình UBND tỉnh chấp thuận nhu cầu sử dụng lao động đối với 435 lao động nước ngoài của 108 doanh nghiệp, cơ sở; cấp giấy phép lao động cho 334 lao động nước ngoài. Tham mưu cho tỉnh thực hiện tiếp nhận 204 lao động từ Bắc Giang trở về tỉnh đảm bảo an toàn, thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch.
Chín tháng đầu năm, các địa phương, doanh nghiệp đã tạo việc làm mới cho 20.540 lao động (đạt 60% kế hoạch năm, bằng 85,3% so với cùng kỳ năm trước), trong đó tạo việc làm tại địa phương cho 15.500 người, đi làm việc tại tỉnh ngoài 4.080 người và đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 960 người.
Đến nay có 71 doanh nghiệp tổ chức huấn luyện về ATVSLĐ cho trên 6.100 lao động; 30 doanh nghiệp kiểm định và khai báo sử dụng 118 máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ; 02 doanh nghiệp thực hiện công bố sản phẩm hợp quy hợp chuẩn về ATVSLĐ. Tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật lao động về ATVSLĐ và phòng, chống dịch Covid-19 tại 20 doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp. 9 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh xảy ra 27 vụ tai nạn lao động làm 28 người bị nạn (trong đó 07 vụ có người chết), thực hiện trợ cấp đột xuất với số tiền 23,5 triệu đồng.
Trợ cấp xã hội
      Theo Báo cáo của Sở Lao động thương binh và Xã hội, Nhân dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021, toàn tỉnh có 36.630 người cao tuổi được chúc thọ, mừng thọ với tổng kinh phí 16 tỷ đồng. 9 tháng đầu năm.
Các cơ sở trợ giúp xã hội thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 theo hướng dẫn của Bộ Lao động –TBXH và của UBND tỉnh. Hiện tại, có 425 đối tượng đang được nuôi dưỡng, chăm sóc tại 2 cơ sở trợ giúp xã hội công lập và 442 đối tượng đang được chăm sóc tại 03 cơ sở ngoài công lập. Các cơ sở đã chủ động xây dựng kịch bản, phương án phòng chống dịch; đối tượng lưu trú được theo dõi chặt chẽ, thăm khám sức khỏe thường xuyên. Đến thời điểm tháng 9/2021, đã thực hiện chi trả cho 102.558 đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng tại cộng đồng, trong đó 49.337 người cao tuổi (chiếm 48,1%); 50.936 người khuyết tật (chiếm 49,7%), còn lại là các đối tượng khác. Ngoài ra, còn có 9.551 cá nhân, gia đình nhận chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cộng đồng. Các chế độ được thực hiện đầy đủ, kịp thời, theo đúng quy định.
Lĩnh vực người có công
      Theo Báo cáo của Sở Lao động thương binh và Xã hội, Ngay từ đầu năm 2021, Sở tập trung chỉ đạo triển khai đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách thường xuyên đối với người và thân nhân của người có công với cách mạng. Hướng dẫn các huyện, thành phố tổ chức các hoạt động thăm, tặng quà cho người và gia đình người có công với cách mạng nhân dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021 và kỷ niệm 74 năm ngày Thương binh – Liệt sỹ. Triển khai kế hoạch điều dưỡng đối với người có công với cách mạng và thân nhân liệt sĩ và thực hiện chế độ điều dưỡng và phương tiện trợ giúp dụng cụ chỉnh hình năm 2021. Hướng dẫn giải ngân hỗ trợ đối với 286 hộ gia đình người có công với cách mạng phát sinh ngoài Đề án đã được UBND tỉnh phê duyệt danh sách và cấp tạm ứng kinh phí của tỉnh để hỗ trợ. Tiếp tục thực hiện Đề án số hóa hồ sơ người có công với cách mạng; rà soát việc thực hiện chế độ trợ cấp tuất đối với thân nhân người có công; rà soát hồ sơ của người hưởng chính sách đối với bệnh binh.
Nhân kỷ niệm 74 năm ngày thương binh liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2021), Sở đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức các hoạt động kỷ niệm và hướng dẫn các địa phương thăm, tặng quà của các cấp cho người có công với cách mạng và thân nhân với tổng 221.056 suất quà, kinh phí trên 78 tỷ đồng. 9 tháng đầu năm 2021, đã tiếp nhận, thẩm định hồ sơ và giải quyết chế độ chính sách cho khoảng 5.000 lượt thủ tục tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh, 4.000 lượt thủ tục tại bộ phận tiếp nhận của Sở, 100% thủ tục được giải quyết đúng và trước thời hạn.
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Tình hình dịch bệnh
Tình hình dịch bệnh Covid-19
        Theo Báo cáo của Sở Y tế Thái Bình, số ca mắc covid-19 từ 01/01/2021 đến ngày 14/9/2021 là 88 ca trong đó điều trị khỏi 79 ca, chuyển viện 03 ca. Tính từ ngày 28/4/2021 đến ngày 14/9/2021 là 83 ca (07 ca nhập cảnh tại Trung đoàn 568 và 76 ca cộng đồng), riêng từ ngày 01/8/2021 đến ngày 14/9/2021 là 44 ca liên quan đến khu vực ổ dịch các tỉnh miền Nam.
- Số ca nghi/ mắc Covid-19 được cách ly, điều trị tại các cơ sở y tế trong toàn tỉnh: Tổng số cách ly đến ngày 14/9/2021 là 903 ca (trong đó đang theo dõi, cách ly: 25 ca; hết cách ly, chuyển viện 876 ca).
- Hoạt động quản lý tại các khu cách ly tập trung: Số cộng dồn (tỉnh + huyện): 10.095 người, trong đó đã hoàn thành cách ly 9.300 người.
- Hoạt động xét nghiệm các đối tượng nguy cơ: Tổng số mẫu xét nghiệm đến 18 giờ 30 ngày 14/9/2021 là 159.753 mẫu, trong đó phát hiện 88 trường hợp dương tính mới.
- Hoạt động tiêm chủng vắc xin Covid-19
+ Tính đến 17 giờ ngày 12/9/2021, ngành Y tế đã hoàn thành 07 đợt tiêm (đang triển khai đợt 8) với tổng số 167.703 mũi tiêm, đã có 47.031 người được tiêm đủ 2 mũi vắc xin, 73.641 người được tiêm 1 mũi vắc xin phòng Covid-19.
+ Ngày 12/9/2021, Sở Y tế tiếp tục ban hành kế hoạch số 81/KH-SYT về việc phân bổ 22.900 liều vắc xin AstraZeneca cho khối doanh nghiệp trong 50.000 liều vắc xin do Bộ Y tế phân bổ cho tỉnh Thái Bình.
Tình hình dịch bệnh khác tại tỉnh
       Ngành Y tế đã tích cực triển khai thực hiện các hoạt động nhằm mục tiêu chủ động phòng chống dịch bệnh, phát hiện dịch sớm, kịp thời khống chế, không để dịch lớn xảy ra, giảm tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết do một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm; khống chế tốc độ gia tăng các bệnh không lây nhiểm phổ biến, bệnh tật lứa tuổi học đường. Tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm tỉnh Thái Bình năm 2021.
Tính đến thời điểm ngày 16/8/2021, trên địa bàn tỉnh không phát hiện các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như cúm A/H5N1, H7N9, bệnh tả. 09 tháng đầu năm đã ghi nhận một số trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm như: chân tay  miệng, hội chứng cúm, viêm não vi rút.
Tình hình HIV/AIDS
      Theo Báo cáo của Sở Y tế Thái Bình, tính đến ngày 14/9/2021, toàn tỉnh hiện có 2.223 người nhiểm HIV/AIDS còn sống (được báo cáo) tại 240/260 xã, phường, thị trấn, trong đó có 751 phụ nữ chiểm tỷ lệ 33,78% và 34 trẻ em chiếm tỷ lệ 1,52 %. Đảm bảo công tác điều trị ARV cho 1.324 bệnh nhân với tổng số 879/1.324 bệnh nhân (đạt tỷ lệ 66,4%) được nhận thuốc từ nguồn BHYT, tiếp nhận và điều trị bằng thuốc Methadone cho 1.397 người nghiện tại các cơ sở điều trị. 08 tháng đầu năm phát hiện 37 người nhiễm HIV, 02 người chết do HIV/AIDS và 25 trường hợp phơi nhiễm.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
       Theo Báo cáo của Sở Y tế Thái Bình, công tác quản lý, tuyên truyền về an toàn thực phẩm tiếp tục được tăng cường, việc hạn chế các hoạt động ăn uống tập trung đông người đã hạn chế được các vụ ngộ độc tập thể; 09 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm tập thể./.
Hoạt động giáo dục
       UBND tỉnh Thái Bình ban hành Quyết định số 1988/QĐ-UBND ngày 16/8/2021 Ban hành kế hoạch thời gian năm học 2021-2022 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên tỉnh Thái Bình.
Tình hình dịch bệnh Covid-19 vẫn có những diễn biến phức tạp tại nhiều tỉnh thành trên cả nước. Thái Bình là một trong những tỉnh thành đang thực hiện phương án dạy và học trực tiếp ngay từ đầu năm học mới. đồng thời xây dựng nhiều phương án học tập sẵn sàng đối phó với mọi tình thế diễn biến dịch bệnh.
Văn hoá - Thể thao
Lĩnh vực văn hóa
- Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
      Hoàn thiện hồ sơ kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Đông Hưng; hoàn thành hồ sơ Bảo vật quốc gia nhang án gỗ sơn son thếp vàng thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII) tại di tích Quốc gia đặc biệt chùa Keo, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư và Đề tài khoa học cấp tỉnh “Nghiên cứu, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống văn bia khắc Hán Nôm trên bia đá tại các di tích lịch sử văn hóa ở huyện Đông Hưng và Kiến Xương tỉnh Thái Bình”.
Tổ chức triển khai xây dựng các dự án tu bổ, tôn tạo di tích: Đình Phương Cáp, Đình An Cố, Đình Hạ Đồng, Đình Lạng, Đền Chòi. Hoàn thành Hồ sơ khoa học cho 02 di tích đề nghị xếp hạng cấp Quốc gia: Khu tưởng niệm 21/10, xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy; Đình Quán, xã Đông Xuân, huyện Đông Hưng. Tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh văn bản trình Bộ Văn Hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích Quốc gia đối với di tích khảo cổ Hành cung Lỗ Giang, xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà. Phối hợp với Viện Nghiên cứu Kinh thành khai quật khảo cổ học khẩn cấp tại Lăng Ngói - di tích khảo cổ Hành cung Lỗ Giang, xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà. Tổ chức lập hồ sơ cho 07 di tích đề nghị xếp hạng cấp tỉnh. Hoàn thiện hồ sơ đề nghị công nhân danh hiệu “Nghệ sỹ nhân dân”, “Nghệ sỹ ưu tú” lần thứ 10 trình Hội đồng chuyên ngành cấp Nhà nước xét tặng.
      Chỉ đạo Bảo tàng tỉnh tổ chức hội chợ quê và phố ông Đồ tại khuôn viên Bảo tàng tỉnh phục vụ hoạt động vui chơi, giải trí và tuyên truyền, giáo dục văn hóa truyền thống của quê hương tới toàn thể nhân dân. Tổ chức trưng bày chuyên đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh với cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946 và các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp tỉnh Thái Bình”. Bảo tàng tỉnh đã đón tiếp, hướng dẫn 19 đoàn khách với số lượng 1.000 người và 1.000 lượt khách tham quan tự do.
       Phòng Văn hóa và Thông tin các huyện, thành phố tham mưu chỉ đạo công tác quản lý, tổ chức các hoạt động văn hóa, di sản văn hóa, việc trùng tu, tu bổ, tôn tạo di tích đi trên địa bàn vào nề nếp, đảm bảo theo quy định của Luật Di sản và trong thời điểm chống dịch Covid-19.
- Xây dựng văn hóa cơ sở và “Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
      Phòng Văn hóa và Thông tin các huyện, thành phố đã chủ động, tích cực tham mưu Ủy ban nhân dân cung cấp triển khai thực hiện có hiệu quả Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” ở địa phương, các hoạt động được triển khai rộng khắp, đa dạng về hình thức và phong phú về nội dung, sáng tạo trong cách làm; chất lượng các danh hiệu văn hóa ngày càng tăng về số lượng và chất lượng.
Lĩnh vực thể thao
- Thể dục thể thao quần chúng
       Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Đại hội Thể dục thể thao các cấp lần thứ IX. Phối hợp với các đơn vị tổ chức các giải thể thao: Giải Cầu lông ngành Kho bạc Nhà nước; giải thể thao Trung học phổ thông năm học 2020 - 2021 của ngành Giáo Dục và Đào tạo; Hội thao của Tập đoàn Giống cây trồng Thái Bình. Tổ chức lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ, hướng dẫn viên, cộng tác viên môn Bóng chuyền hơi, Bóng chuyền da trong khuôn khổ Đại hội Thể dục Thể thao các cấp tỉnh Thái Bình lần thứ IX.
      Trung tâm Văn hóa - Thể thao các huyện, thành phố đã tích cực, chủ động tổ chức các giải: Việt dã, Vật, Cầu lông, Bóng bàn, Bóng chuyền, Bóng chuyền hơi, Cờ tướng, Cờ vua, Kéo co, Bơi, Võ, Bóng đá... Phối hợp với Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện, thành phố tổ chức các giải Bóng đá Thiếu niên - Nhi đồng cấp huyện... Hướng dẫn cơ sở tổ chức Đại hội Thể dục thể thao tại xã điểm.
- Thể thao thành tích cao
      Chỉ đạo Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao thực hiện tốt công tác quản lý vận động viên, duy trì việc giảng dạy, huấn luyện đảm bảo theo kế hoạch; thải loại 06 vận động viên, đề nghị tuyển dụng 69 vận động viên. Tổ chức tập huấn cho các vận động viên tham gia thi đấu 08 giải đạt 06 HCV, 9 HCB, 17 HCĐ gồm các giải: Việt dã báo Tiền phong; vô địch Bóng chuyền đội mạnh quốc gia vòng I; vô địch Bơi lặn bể 25m; vô địch Cúp Kickboxing toàn quốc; Cầu lông các câu lạc bộ tỉnh, thành, ngành toàn quốc; Đua thuyền các câu lạc bộ toàn quốc; vô địch Karate phía Bắc; Bóng chuyền Cúp Hoa Lư - Bình Điền; có 22 vận động viên là thành viên đội tuyển và đội tuyển trẻ Quốc gia.
Tình hình an toàn giao thông
       Theo báo cáo của Ban an toàn giao thông từ ngày 15/8/2021 đến ngày 14/9/2021 trên địa bàn tỉnh xảy ra 11 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 5 người chết và 9 người bị thương. Tính chung 9 tháng toàn tỉnh xảy ra 53 vụ tai nạn giao thông, tăng 5 vụ so với cùng kỳ (+10,6%), làm 40 người chết, tăng 02 người (+5,2%), làm 8 người bị thương.
Tình hình cháy nổ
       Theo số liệu báo cáo từ phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và Cứu nạn cứu hộ, trong tháng trên địa bàn tỉnh Thái Bình không xảy ra vụ cháy, nổ.
       Tính chung 9 tháng năm 2021 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 7 vụ cháy, làm chết 02 người. Tổng thiệt hại ước tính trên 5 tỷ đồng./.

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây