Tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng năm 2019

Thứ sáu - 26/04/2019 22:08
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng năm 2019

1 (1)

2 (1)
4 (1)
6
 
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Nông nghiệp
Trồng trọt
Gieo trồng cây màu vụ xuân:
Diện tích gieo trồng cây màu vụ xuân đạt 14.768 ha, tăng trên 2,0% so với cùng kỳ và vượt 0,5% kế hoạch đề ra. Diện tích cây màu xuân đã thu hoạch đạt khoảng 6.932 ha, chiếm khoảng 47% tổng diện tích cây màu đã trồng, chủ yếu là thu hoạch các loại diện tích cây màu quay vòng ngắn ngày. Hiện các địa phương đang tích cực chăm sóc diện tích cây màu vụ xuân đã trồng và thu hoạch những diện tích rau màu đến kỳ thu hoạch.
Chăn nuôi:
Chăn nuôi trâu, bò: Số lượng đàn trâu bò ổn định tại quy mô hộ gia đình, giá cả và mức tiêu thụ đạt khá, tình hình dịch bệnh ít xảy ra nên người chăn nuôi trâu bò yên tâm sản xuất. Tổng đàn trâu, bò tại thời điểm tháng 4/2019 ước đạt 52,9 nghìn con, tăng 0,5% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng tháng 4/2019 ước đạt 777 tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ (riêng sản lượng thịt bò do Công ty TNHH MTV chăn nuôi Việt Hùng sản xuất đạt 145 tấn, tăng 3,6% so với cùng kỳ). Tính chung 4 tháng đầu năm 2019 sản lượng thịt trâu, bò xuất chuồng ước đạt 3.075 tấn, tăng 4,3% so với cùng kỳ.
Chăn nuôi lợn: Trong tháng tình hình chăn nuôi lợn vẫn rất khó khăn do dịch bệnh ngày càng có chiều hướng diễn biến phức tạp. Tính đến ngày 15/4/2019 dịch bệnh đã xảy ra ở 242/281 xã, phường, thị trấn có nuôi lợn trên địa bàn 8 huyện, thành phố của tỉnh (riêng 3 huyện Kiến Xương, Đông Hưng, Quỳnh Phụ dịch đã xảy ra ở 100% số xã, thị trấn). Đến 15/4/2019 toàn tỉnh đã tiêu hủy trên 7.500 tấn lợn, đặc biệt trong một vài ngày gần đây mỗi ngày đều phải tiêu hủy hơn 300 tấn lợn và nguy hiểm hơn dịch đã bắt đầu xảy ra đối với các trang trại chăn nuôi có quy mô tổng đàn lớn của tỉnh. Việc phát triển đàn lợn tại thời điểm này cũng được các cơ quan chức năng khuyến cáo cần hết sức thận trọng nên số lượng tái đàn từ các hộ, trang trại rất hạn chế.
     Ước tính tổng đàn lợn tại thời điểm tháng 4/2019 đạt 658,1 nghìn con, giảm 32,0% so với cùng kỳ. Giá cả thị trường con giống lợn, thịt lợn hơi biến động nhiều so với tháng 3/2019 và vẫn giữ ở mức thấp. Hiện trên thị trường Thái Bình loại lợn hơi F1 có giá 27.000 – 28.000 đồng/kg; loại F2, F3 có giá 30.000 – 32.000 đồng/kg; lợn siêu có giá 35.000 – 37.000 đồng/kg. Nguyên nhân chủ yếu khiến giá lợn hơi giảm do sức mua của người tiêu dùng giảm do tâm lý lo lắng về tình hình dịch bệnh. Hiện nguồn lợn thịt cung cấp ra thị trường chủ yếu từ các trang trại hoặc công ty chăn nuôi lớn có nguồn gốc đã được kiểm định nghiêm ngặt trước khi đưa ra thị trường.
Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tháng 4/2019 ước đạt 22,2 nghìn tấn, giảm 22,1% so với cùng kỳ. Tính chung 4 tháng năm 2019 sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 62,5 nghìn tấn, giảm 5,3% so với cùng kỳ 2018.
Chăn nuôi gia cầm: Tình hình chăn nuôi gia cầm phát triển tương đối tốt do dịch bệnh được kiểm soát, giá bán ổn định và thời gian này có xu hướng tăng nhẹ. Tổng đàn gia cầm tại thời điểm tháng 4/2019 ước đạt gần 12,9 triệu con, tăng 4,1% so với cùng kỳ; trong đó số lượng đàn gà đạt 9,6 triệu con, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2018.
Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng tháng 4/2019 ước đạt 4,1 nghìn tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ, trong đó sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng ước đạt 2,7 nghìn tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ. Tính chung 4 tháng năm 2019 sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 17,9 nghìn tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ, trong đó sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng đạt 13,4 nghìn tấn, tăng 5,0% so với cùng kỳ.
Lâm nghiệp
Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 100 m3­, giảm 4,8% so với cùng kỳ; sản lượng củi khai thác ước đạt 750 ste, giảm 6,3% so với cùng kỳ. Tính chung 4 tháng năm 2019 sản lượng gỗ khai thác ước đạt 569 m3­, giảm 3,6% so với cùng kỳ; sản lượng củi khai thác ước đạt 2.773 ste, giảm 6,7% so với cùng kỳ.
Trong những tháng tới, tỉnh tiếp tục chỉ đạo các xã ven biển tăng cường công tác quản lý và bảo vệ rừng ngập mặn ven biển, đồng thời chuẩn bị điều kiện để tiếp tục triền khai kế hoạch trồng mới và trồng bổ sung rừng đạt kết quả tốt.
Thủy sản
Tổng sản lượng thủy sản tháng 4/2019 ước đạt 18,9 nghìn tấn, tăng 7,0% so với cùng kỳ. Tính chung 4 tháng đầu năm 2019 tổng sản lượng thủy sản ước đạt 77,0 nghìn tấn, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước.
   Khai thác
Tình hình thời tiết trong những tháng đầu năm thuận lợi, ổn định, có một số ít ngày có gió mùa bà con ngư dân không ra khơi đánh bắt được, song hiện đang vào vụ khai thác nên cũng không ảnh hưởng nhiều đến sản lượng khai thác trong tháng.
Sản lượng khai thác thủy sản tháng 4/2019 ước đạt 7,7 nghìn tấn, tăng 6,3% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 4,8 nghìn tấn, tăng 6,3%; tôm đạt trên 0,1 nghìn tấn, tăng 2,7%; thủy sản khác đạt gần 2,8 nghìn tấn, tăng 6,6% so với cùng kỳ. Tính chung 4 tháng đầu năm 2019 sản lượng khai thác thủy sản ước đạt 31,8 nghìn tấn, tăng 7,3% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 19,1 nghìn tấn, tăng 7,1%; tôm đạt trên 0,4 nghìn tấn, tăng 1,3%; thủy sản khác đạt 12,3 nghìn tấn, tăng 7,8% so với cùng kỳ 2018.
Nuôi trồng         
 Hiện thời điểm này các địa phương đã ổn định việc cải tạo ao đầm bước vào vụ nuôi thả mới. Ngoài các hộ, các cơ sở nuôi cá với phương pháp nuôi truyền thống thì nuôi lồng bè cũng đang phát triển khá mạnh mẽ tai các huyện Quỳnh Phụ, Vũ Thư, Đông Hưng,… do nguồn nước có thể đảm bảo an toàn, kiểm soát được dịch bệnh nên sản lượng tăng trưởng ở mức khá. Các hộ, cơ sở nuôi tôm đặc biệt là tôm thẻ chân trắng tiếp tục phát triển; những mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng theo hình thức công nghệ cao sản lượng ổn định và đạt khá đã góp phần không nhỏ cho sự tăng trưởng của ngành thủy sản.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 4/2019 ước đạt 11,2 nghìn tấn, tăng 7,4% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt gần 2,9 nghìn tấn, tăng 2,8%; tôm đạt trên 0,07 nghìn tấn, tăng 5,6%; thủy sản khác đạt 8,2 nghìn tấn, tăng 9,1% so với cùng kỳ. Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 45,1 nghìn tấn, tăng 7,4 so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 11,8 nghìn tấn, tăng 4,4%; tôm đạt 0,3 nghìn tấn, tăng 5,7%; thủy sản khác đạt gần 33,0 nghìn tấn, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2018.
 
Tiến độ nông nghiệp đến ngày 14 tháng 4 năm 2019
 
 Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 4/2019 ước tăng hơn 9,2% so với tháng trước và tăng hơn 17,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng cao như: công nghiệp chế biến chế tạo tăng hơn 23,1% so tháng cùng kỳ năm 2018; sản xuất  kim loại tăng 2,3 lần so với cùng kỳ năm trước; sản xuất đồ uống tăng hơn 68,7%, sản xuất chế biến thực phẩm tăng hơn 20,4%; dệt tăng 9,1%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí ước giảm hơn 5,3%; ngành cung cấp, hoạt động quản lý và xử lý rác ước tăng hơn 5,7% so với cùng kỳ.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, IIP tăng 12,5%; trong đó ngành công nghiệp sản xuất chế biến thực phẩm tăng gần 18%; sản xuất và phân phối khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm gần12%; cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải tăng hơn 2,1% so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 4 năm 2019, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng mạnh so với cùng kỳ như: sản phẩm tôm đông lạnh ước đạt 85 tấn tăng hơn 2,9 lần; sản phẩm thức ăn gia súc ước đạt 5.85,3 tấn tăng hơn 2,5 lần; sản phẩm thức ăn cho gia cầm ước đạt 5.030 tấn tăng hơn 2,1 lần; sản phẩm thép cán ước đạt 46.494,4 tấn tăng hơn 2,5 lần; sản phẩm tàu đánh bắt thủy hải sản, các loại tàu chuyên dụng ước đạt 4.283 triệu đồng tăng 76,7%; sản phẩm sứ vệ sinh ước đạt trên 564 nghìn cái, tăng 38,1%; sản phẩm Polyaxetal, polyete và nhựa epoxy dạng nguyên ước đạt trên 2 nghìn tấn, tăng 31,6%; sản phẩm Nitơrat Amoni ước đạt 17.500 tấn, tăng hơn 1%. Bên cạnh đó cũng có một số sản phẩm giảm mạnh so với cùng kỳ như: sản phẩm áo sơ mi cho người lớn ước đạt gần 3.174 nghìn cái, giảm 49,3%; sản phẩm bia chai ước đạt 1.645 nghìn lít, giảm 30,3%; sản phẩm bia dạng lon ước đạt 4.650 nghìn lít giảm 23,5%; khí tự nhiên dạng khí ước đạt 2 triệu m3 giảm 49,3%; điện sản xuất ước đạt 290 triệu Kwh giảm 6,6% so với cùng kỳ năm 2018... Trong tháng 3 và đầu tháng 4 nhà máy Nhiệt điện 1 chỉ phát điện 1 tổ máy để dự trữ than cho mùa hè, nhưng từ sau ngày 25/4/2019 đã tiến hành phát điện tối đa cả 2 tổ máy.
Trong 4 tháng đầu năm 2019, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng cao so với cùng kỳ như: sản phẩm tôm đông lạnh ước đạt 279,8 tấn tăng hơn 2,2 lần; sản phẩm thức ăn gia súc ước đạt 23.298 tấn tăng hơn 2,5 lần; sản phẩm thức ăn cho gia cầm ước đạt 19.320 tấn tăng hơn 1,8 lần; sản phẩm thép cán ước đạt 112.756,3 tấn tăng hơn 1,3 lần so với cùng kỳ; sản phẩm sứ vệ sinh ước đạt trên 2,2 triệu cái tăng , tăng 44,6%; sản phẩm Nitơrat Amoni ước đạt 59.230 tấn, tăng hơn 24,5%; sản phẩm điện sản xuất ước đạt hơn 851 triệu KWh tăng hơn 8,6% so cùng kỳ năm 2018. Bên cạnh đó cũng có một số sản phẩm giảm mạnh so với cùng kỳ như: sản phẩm áo sơ mi cho người lớn ước đạt hơn 10.995 nghìn cái, giảm gần 35%; sản phẩm tai nghe khác ước đạt 29.277 nghìn cái, giảm 27,3%; sản phẩm bia dạng lon ước đạt 18.996 nghìn lít, giảm 20,9; sản phẩm bia chai ước đạt trên 2.420 nghìn lít, giảm 10,7% so với cùng kỳ năm 2018.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 4 năm 2019 giảm 5,2% so với tháng trước và tăng 5% so với cùng kỳ.
Chỉ số tồn kho ngành chế biến, chế tạo tính đến tháng 4 năm 2019 tăng hơn 14,8 so với tháng trước và tăng hơn 45,6% so với  cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/4/2019 tăng 2,1% so với cùng thời điểm năm trước. Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 9,2%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 3,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng hơn 1,8% so với cùng kỳ năm 2018.
 
  Chỉ số sản xuất công nghiệp
  Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
 
  Đầu tư
Tháng 4/2019 vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 299,5 tỷ đồng, tăng 6,7% so với tháng trước, tăng hơn 21% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước đạt trên 160 tỷ đồng, tăng gần 8% so với tháng trước và tăng hơn 25,5% so với cùng kỳ; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt trên 64,4 tỷ đồng, tăng hơn 6,8% so với tháng trước và tăng hơn 14,2% so với cùng kỳ; vốn ngân sách cấp xã ước đạt trên 74,4 tỷ đồng, tăng hơn 4% so với tháng trước và tăng gần 18% so với cùng kỳ.
Ước tính 4 tháng đầu năm vốn đầu tư phát triển thuộc  nguồn vốn ngân sách Nhà nước do tỉnh quản lý đạt 580,1 tỷ đồng, giảm 33,3% so với cùng kỳ.
* Trong tháng 4 có một số dự án đầu tư, xây dựng bằng nguồn ngân sách tỉnh:
Dự án hạ tầng kỹ thuật khu dân cư tổ 7 phường Phúc Khánh, vốn đầu tư 5 tỷ đồng, thực hiện trong tháng đạt 600 triệu đồng;
Dự án Đường huyện 74, huyện Quỳnh Phụ giai đoạn 1, vốn đầu tư gần 45 tỷ đồng, sơ bộ tháng 4 đạt gần 10 tỷ đồng;
Dự án trụ sở huyện đội huyện Quỳnh Phụ, vốn đầu tư 70 tỷ đồng, sơ bộ tháng 4 đạt hơn 12 tỷ đồng;
Dự án đường Quốc lộ 39 qua UBND xã Thái Hưng đến nhà lưu niệm Hồ Chí Minh xã Hồng An huyện hưng Hà giai đoan I, vốn đầu tư đạt gần 42 tỷ đồng, sơ bộ tháng 4 đạt 8 tỷ đồng;
Dự án xây dựng tuyến đường nối Thái Bình- Hà Nam, tổng vốn đầu tư 130 tỷ đồng, sơ bộ tháng 4 đạt 12 tỷ đồng;
Dự án đường huyện 56 đoạn từ đường huyện 56 đi UBND Đồng Phú huyện Đông Hưng, mức đầu tư gần 10 tỷ đồng, thực hiện tháng 4 sơ bộ đạt 2,3 tỷ đồng;
Dự án đường huyện 55 đoạn từ Quốc Lộ 10 đến trường THCS Phương Cường Xá huyện Đông Hưng, mức đầu tư gần 30 tỷ đồng , thực hiện tháng 4 sơ bộ đạt gần 1,6 tỷ đồng;
Dự án nâng cấp đường tỉnh 456 huyện Thái Thụy, mức đầu tư gần 300 tỷ đồng, thực hiện tháng 4 sơ bộ đạt 7,5 tỷ đồng;
Dự án xây dựng Nhà làm việc các cơ quan huyện ủy – HĐND- UBND huyện Tiền Hải, vốn đầu tư 109 tỷ đồng , sơ bộ tháng 4 đạt 2 tỷ đồng;
Dự án cải tạo, nâng cấp đường liên xã An Bồi đi Thượng Hiền huyện Kiến Xương, vốn đầu tư gần 11 tỷ đồng , thực hiện sơ bộ tháng 4 đạt gần 3 tỷ đồng;
Dự án nâng cấp đường từ 217- Đường tỉnh 396B từ cầu Hiệp đến quốc lộ 39 giai đoạn II đoạn từ quốc lộ 10 đến quốc lộ 39, vốn đầu tư hơn 418 tỷ đồng, thực hiện sơ bộ tháng 4 đạt hơn 4 tỷ đồng;
Dự án tuyến đường liên tỉnh nối đường vành đai vùng thủ đô Hà Nội đoạn trên địa phận tỉnh Thái Bình với quốc Lộ 38B và cao tốc Hà Nội- Hải Phòng trên địa phận tỉnh Hưng Yên, đoạn trên địa phận tỉnh Thái Bình và Cầu La Tiến, vốn đầu tư hơn 680 tỷ đồng, thực hiện sơ bộ tháng 4 đạt hơn 30 tỷ đồng;
Dự án cải tạo, nâng cấp đường tránh trú bão, cứu hộ, cứu nạn, phát triển kinh tế biển và đảm bảo an ninh quốc phòng ven biển phía Nam tỉnh Thái Bình (đường 221A), vốn đầu tư hơn 734 tỷ đồng, thực hiện sơ bộ tháng 4 đạt hơn 1 tỷ đồng;
Dự án xây dựng kè Phan xã Hòa Tiến huyện Hưng Hà, vốn đầu tư 15 tỷ đồng, dự kiến tháng 4 đạt 4 tỷ đồng;
Dự án làm đường từ xã Hòa Bình đến xã Chi Lăng huyện Hưng Hà, vốn đầu tư gần 15 tỷ đồng, dự kiến tháng 4 đạt gần 4 tỷ đồng;
Dự án đường huyện ĐH huyện Hưng Hà, vốn đầu tư 64 tỷ đồng, dự kiến tháng 4 đạt 4 tỷ đồng;
Dự án đường huyện ĐH 60 giai đoạn III huyện Hưng Hà, vốn đầu tư gần 56 tỷ đồng, dự kiến tháng 4 đạt 5 tỷ đồng;
- Tính đến đầu tháng 4 năm 2019 đã cấp 85 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp,4 chi nhánh, văn phòng đại diện với số vốn đăng ký đạt trên 1.061,1 tỷ đồng. Xác nhận Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động: 09 doanh nghiệp; doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là 01doanh nghiệp. Trong đó thu hồi GCN ĐKKD do DN giải thể là 01 doanh nghiệp.
 
  Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
   
Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước ước tính 4 tháng năm 2019 đạt gần 7.002 đồng, tăng 40% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nội địa ước đạt 2.012 tỷ đồng, tăng 40%; thu thuế xuất nhập khẩu ước đạt 323 tỷ đồng, giảm 48%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt 2.509 tỷ đồng tăng 5,8%...
Tổng chi ngân sách địa phương thực hiện 4 tháng năm 2019 ước đạt trên 7.774 tỷ đồng, giảm 2,9% so với cùng kỳ; trong đó: chi phát triển kinh tế ước đạt gần 1.607 tỷ đồng, giảm 5,9%; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt gần 2.025 tỷ đồng, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước…
.Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tháng 04/2019 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 3.594,5 tỷ đồng, giảm 1,6% so với tháng trước và tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Kinh tế Nhà nước ước đạt 54,2 tỷ đồng, giảm 0,8% so với tháng trước và giảm 6,4% so với cùng kỳ năm trước; kinh tế Ngoài nhà nước ước đạt 3.539 tỷ đồng, giảm 1,6 % so với tháng trước và tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 1,6 tỷ đồng, tăng 3,3% so với tháng trước và tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ngành kinh tế: Doanh thu thương nghiệp ước đạt 3.109,5 tỷ đồng giảm 1,9% so với tháng trước và tăng 11,4% so với cùng kỳ; doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú ước đạt 13,7 tỷ đồng tăng 1% so với tháng trước và tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 271 tỷ đồng, tăng 3% so với tháng trước và tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 3,3 tỷ đồng tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác ước đạt 197,2 tỷ đồng, giảm  2,6% so với tháng trước và tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 3.109,5 tỷ đồng, giảm 1,9% so với tháng trước. Chia theo nhóm ngành hàng bán lẻ thì nhóm ngành hàng tăng so với tháng trước như: Nhóm hàng hoá khác ước đạt 269,2 tỷ đồng (+0,9%); nhóm gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 417 tỷ đồng (+0,7%); nhóm ô tô các loại ước đạt 47,3 tỷ đồng (+0,08%).; … Bên cạnh đó nhóm ngành hàng giảm như: Nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình ước đạt 397 tỷ đồng (-8,3%);  nhóm vật phẩm, văn hoá, giáo dục ước đạt 26,4 tỷ đồng (-6%); nhóm hàng may mặc ước đạt 134 tỷ đồng (-0,5%);…
            Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước 4 tháng đầu năm 2019  đạt 14.560,4 tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Kinh tế Nhà nước ước đạt 218 tỷ đồng, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm trước; kinh tế Ngoài nhà nước ước đạt 14.337 tỷ đồng, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 6,1 tỷ đồng, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ngành kinh tế: Doanh thu thương nghiệp ước đạt 12.659 tỷ đồng, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú ước đạt 54,1 tỷ đồng, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 1.036,3 tỷ đồng; tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 11,3 tỷ đồng  tăng 7% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác ước đạt 799,7 tỷ đồng, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước.
 Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước 4 tháng đầu năm 2019 đạt 12.659 tỷ đồng, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo nhóm ngành hàng bán lẻ nhóm ngành hàng tăng so với cùng kỳ năm trước như: Nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm ước đạt 230,2 tỷ đồng (+22,5%); nhóm xăng dầu các loại ước đạt 2.082,1 tỷ đồng (+21,4%); nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình ước đạt 1.679,5 tỷ đồng (+16,1%);.. Bên cạnh đó nhóm ngành hàng giảm như: Nhóm ô tô các loại ước đạt 189,2 tỷ đồng (-19,6%); nhóm hàng may mặc ước đạt 545 tỷ đồng (-5,3%); nhóm nhiên liệu khác ước đạt 143 tỷ đồng (-3,6%).
 
  Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

 Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu:
Tháng 04/2019, trị giá xuất khẩu ước đạt 118,5 triệu USD, tăng 9,8% so với tháng trước và tăng 20,3 % so với cùng kỳ năm trước. Phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân trị giá xuất khẩu ước đạt 71,8 triệu USD, tăng 12,3% so với tháng trước và tăng 23,3% so với cùng kỳ năm trước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 46,7 triệu USD, tăng 6,1% so với tháng trước và tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Mặt hàng có giá trị xuất khẩu tháng 04/2019 tăng so với tháng trước  như: Hàng hoá khác (+15%); xơ, sợi dệt các loại (+14,7%), sản phẩm gỗ (+14,3%), hàng thuỷ sản (+13%), h àng  dệt may (+9%)… Bên cạnh đó còn có mặt hàng giảm như: Sản phẩm từ sắt thép (-13,4%); sản phẩm gốm sứ (-2,6%)…
Bốn tháng đầu năm 2019, trị giá xuất khẩu ước đạt 451,3 triệu USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân trị giá xuất khẩu ước đạt 254 triệu USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 197,3 triệu USD tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2019 tăng so với cùng kỳ năm trước như: Gạo tăng gấp 8,7 lần; sắt thép tăng  gấp 6,3 lần; sản phẩm gỗ (+44,1%), hàng may mặc (+18,7%); Xơ, sợi dệt các loại (+4,7%). Bên cạnh đó còn có mặt hàng giảm như: Hàng thuỷ sản (-45,2%); sản phẩm từ sắt thép (-39,8%); sản phẩm mây, tre, cói và thảm (-8,1%)….
Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu tháng 04/2019 ước đạt 138,6 triệu USD, tăng 25,6% so với tháng trước và tăng 24,7 % so với cùng kỳ năm trước. Phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 91,3 triệu USD, tăng 26,8% so với tháng trước và  tăng 44,4% so với cùng kỳ; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 47,2 triệu USD, tăng 23,5% so với tháng trước và giảm 1% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng có giá trị nhập khẩu tháng 04 tăng so với tháng trước như: Hàng thuỷ sản tăng gấp 3,1 lần; chất dẻo nguyên liệu tăng gấp 2 lần; xăng dầu các loại (+64,3%); nguyên phụ liệu dệt may (+48,5%); sắt thép các loại (26,6%); vải các loại (+21,5%);… Bên cạnh đó còn có mặt hàng giảm: Xơ, sợi dệt (-5,6%); bông các loại (-4,2%).
 
  Hàng hóa xuất, nhập khẩu

 Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2019 tăng 0,33% so với tháng trước (khu vực thành thị tăng 0,34%; khu vực nông thôn tăng 0,33%); tăng 0,36% so với tháng 12 năm 2018 và tăng 3,37% so với cùng tháng năm trước. Nhóm hàng có chỉ số tăng so với tháng trước như: nhóm “giao thông” tăng 4,51%; bên cạnh đó các nhóm hàng có chỉ số giảm như: nhóm “hàng ăn và dịch vụ ăn uông” giảm 0,13%, “may mặc, mũ nón, giày dép” giảm 0,16%.... Một số nguyên nhân tác động đến chỉ số giá tháng 10 tăng so với tháng trước như: trong tháng 4 có 2 đợt điều chỉnh tăng giá xăng vào ngày 03/4 và 18/4, giá xăng A95 tăng 2.690 đồng/lít, xăng E5 tăng 2.490 đồng/lít, dầu diezen tăng 1.520 đồng/lít đã tác động đến chỉ số giá nhóm “Giao thông”. Do ảnh hưởng của dịch lợn châu Phi nên một số thực phẩm có xu hướng tăng giá như thịt gia cầm, tôm, cá.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 4 tháng năm 2019 tăng 3,39% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có chỉ số tăng cao như: “hàng ăn và dịch vụ ăn uống” tăng 1,82%; “nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng” tăng 11,9%; “giáo dục” tăng 6,16%... tuy nhiên một số nhóm hàng chỉ số tiêu dùng lại giảm như: “Bưu chính viễn thông” giảm 0,16%; “thuốc và dịch vụ y tế” giảm 1,1%...
 
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng, chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3 năm 2019

 Vận tải và dịch vụ hỗ trợ
Vận tải hành khách
Tháng 04/2019, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 134,1 tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 11,8% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt hơn 1,8 triệu người tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt hơn 202 triệu người.km, tăng 1,1% so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước tăng 5,4%.
 Ước 4 tháng đầu năm 2019 doanh thu vận tải hành khách ước đạt 530,5 tỷ đồng, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt hơn 7,1 triệu người, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 786,5 triệu người.km so với cùng kỳ năm trước tăng 7,3%.
Vận tải hàng hoá
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 04/2019 ước đạt 317,8 tỷ đồng, tăng  0,3% so với tháng trước và tăng 12,1% so với cùng kỳ năm 2018. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt gần 1,9 triệu tấn, tăng 1% so với tháng trước và tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt hơn 712,1 triệu tấn.km, tăng 0,4% so với tháng trước, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu vận tải hàng hóa 4 tháng đầu năm 2019 ước đạt 1.285,1 tỷ đồng, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 7,6 triệu tấn, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 2.885,1 triệu tấn.km, tăng 21,7% so với cùng quý năm trước.
Doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải
Doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 04/2019 ước đạt 3,8 tỷ đồng, tăng 0,6% so với tháng trước và tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước.
Ước 4 tháng đầu năm 2019 doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 15 tỷ đồng, tăng 17,8% so với cùng quý năm trước.
 
  Doanh thu hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ

 Một số tình hình xã hội
Lao động và việc làm:
Tháng 4/2019, toàn tỉnh tạo việc làm mới cho 3.100  lao động, (trong đó việc làm tại địa phương 2.400 người, làm việc tại tỉnh ngoài 420 người, xuất khẩu lao động 280 người).
Thực hiện trợ cấp thất nghiệp cho 283 trường hợp, giới thiệu 01 doanh nghiệp có chức năng về tuyển chọn lao động, đào tạo và cung ứng cho thị trường lao động trong và ngoài nước. Cấp giấy phép lao động cho 17 lao động (06 trường hợp cấp mới, cấp lại 11 trường hợp).
Tháng 4/2019, có 2.645 người tham gia học nghề, trong đó trình độ Cao đẳng 75 người, Trung cấp 370 người, trình độ Sơ cấp và đào tạo dưới 03 tháng là 2.200 người.
Lĩnh vực người có công:
Sở Lao động Thương binh và xã hội tiếp tục triển khai thực hiện tốt chế độ chính sách cho đối tượng và thân nhân người có công. Trong tháng 4/2019,tiến hành sửa đổi thông tin cá nhân trong hồ sơ NCC cho 06 trường hợp, thực hiện giám định vết thương còn sót đối với 03 trường hợp, giải quyết trợ cấp đối với vợ hoặc chồng liệt sỹ đi lấy chồng hoặc vợ khác đối với 02 trường hợp,thẩm duyệt hồ sơ đề nghị cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 10 lượt thủ tục; 04 thân nhân người có công được hưởng chế độ tuất hàng tháng khi người có công từ trần; giải quyết chế độ trợ cấp một lần tiền mai táng phí và trợ cấp 1 lần cho thân nhân NCC với 18 lượt thủ tục; di chuyển 15 hồ sơ người có công đi tỉnh ngoài; sao 335 hồ sơ người có công để trả các huyện, thành phố, rút 365 HS NCC để giải quyết chế độ chính sách và phục vụ công tác thanh tra và công an, cấp 33 thẻ thương, bệnh binh; ghép 388 hồ sơ mai táng phí.
Thực hiện Đề án hỗ trợ cải thiện nhà ở cho người có công với cách mạng, đến nay, Sở Lao động Thương binh và xã hội đã trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt danh sách, cấp kinh phí hỗ trợ cho 15.498 hộ/25.830 hộ (đạt 60% số hộ của Đề án). Trong đó, xây mới 10.120 hộ/15.827 hộ; sửa chữa 5.378 hộ/10.003 hộ. Số hộ đề nghị được hỗ trợ cải thiện nhà ở tiếp tục phải rà soát là 10.332 hộ (chiếm 40% số hộ của Đề án, xây mới 5.707 hộ, sửa chữa 4.625 hộ).
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS
  Tình hình dịch bệnh:
Tính đến thời điểm 26/03, trên địa bàn tỉnh không phát hiện các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như Cúm A/H5N1, H7N9, bệnh dại, bệnh tả. Qua giám sát ghi nhận một số trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm như: 21 trường hợp mắc Sốt xuất huyết lâm sàng (12/21 trường hợp (+) test nhanh); 93 trường hợp sốt phát ban nghi Sởi (xuất hiện ở cả người lớn và trẻ nhỏ); 101 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (phần lớn ở độ I); 01 trường hợp Viêm não Nhật Bản; 01 trường hợp mắc ho gà. Trong quý I năm 2019 ghi nhận chùm ca mắc Hội chứng cúm tại Thành phố Thái Bình tháng 01/2019 và Huyện Vũ Thư tháng 03/2019 chủ yếu là Cúm AH1N1 và cúm B với tổng số 273 trường hợp mắc hội chứng Cúm.
Thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND trong việc phối hợp liên ngành phòng chống Dịch tả lợn Châu Phi, ngành Y tế đã tổ chức họp triển khai phòng chống dịch, tăng cường các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức của người dân về dịch Tả lợn Châu Phi, chỉ đạo các cơ sở khám chữa bệnh chủ động trong việc thu dung, điều trị bệnh nhân (nếu có). Đến nay chưa ghi nhận trường hợp nhiễm bệnh Tả lợn Châu Phi ở người;
Sở Y tế phối hợp chặt chẽ với các đơn vị có liên quan tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, thực hiện các biện pháp phòng chống dịch bệnh, vệ sinh môi trường. Tăng cường công tác theo dõi, giám sát, phát hiện bệnh dịch để ứng phó kịp thời, khoanh vùng xử lý triệt để không để dịch bùng phát nhất là các bệnh dịch mùa Đông Xuân, ổ dịch cũ, các khu vực trọng điểm và đầu mối giao thương. .
Tình hình HIV/AIDS:
Tổ chức tiếp nhận và điều trị Methadone cho 1.260 người nghiện ma túy tại tất cả các cơ sở điều trị; điều trị ARV cho 1.244 bệnh nhân, tư vấn cho 15 trường hợp (cấp thuốc 03 trường hợp, kê đơn 08 trường hợp) phơi nhiễm HIV;
Toàn tỉnh hiện đang quản lý 2.122 người nhiễm HIV/AIDS (hiện còn sống), lũy tích 1.460 bệnh nhân AIDS; 729 người bệnh là phụ nữ (34,4%);  đã phát hiện 06 ca nhiễm HIV mới, 04 người tử vong do AIDS được báo cáo [1]. Lũy tích 254/286 xã/phường phát hiện có người nhiễm HIV.
 Văn hoá - Thể thao
Lĩnh vực văn hóa
Trung tâm Văn hóa tỉnh tổ chức hướng dẫn hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng, sinh hoạt câu lạc bộ cho các huyện, thành phố, xây dựng kế hoạch tổ chức phim về đề tài cách mạng chiếu tại rạp Thống Nhất và chiếu lưu động ở cơ sở phục vụ nhân dân chào mừng kỷ niệm 44 năm ngày Giải phóng mền Nam thống nhất đất nước(30/4/1975-30/4/2019) và 133 ngày Quốc tế lao động (01/5/1886-01/5/2019)
Thư viện Khoa học tổng hợp tỉnh tổ chức các hoạt động tuyên truyền văn hóa đọc nhân ngày Hội sách Việt Nam và Văn hóa đọc (21/4), ngày Sách và bản quyền Thế giới (23/4).
Lĩnh vực thể dục, thể thao
Trung tâm huấn luyện Thể dục thể thao tổ chức tạp huấn và tham gia thi đấu các giải: Việt dã báo Tiền phong, vô địch Wushu quốc gia, bong chuyền vô địch các đội mạnh Quốc  gia vòng I, Đua thuyền các câu lạc bộ toàn quốc, Vô địch điền kinh trẻ Đông Nam Á, Cầu lông quốc tế Challenger Hà Nội dạt 19 huy chương các loại: 04 HCV, 07 HCB, 08HCĐ.
Ngày 27/3/2019, đã diễn ra lễ ra mắt Câu lạc bộ đào tạo bóng đá trẻ Bamboo Airways Thái Bình do Sở Văn hoá – Thể thao – Du lịch tỉnh Thái Bình kết hợp cùng Hãng hàng không Bamboo Airways tổ chức. Với mong muốn đồng hành cùng Thái Bình xây dựng và phát triển một nền bóng đá bền vững và chuyên nghiệp, hãng hàng không Bamboo Airways (Công ty thành viên của Tập đoàn FLC) đã kí thoả thuận hợp tác chính thức với Trung tâm Huấn luyện thể dục thể thao tỉnh Thái Bình, trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh. Với hệ thống sân tập, sân thi đấu, kí túc xá, thiết bị tập luyện hiện đại cũng như đội ngũ huấn luyện viên nhiều kinh nghiệm dự kiến được đầu tư đồng bộ, các vận động viên trẻ sẽ được đào tạo toàn diện thông qua những cơ hội cọ xát thực tế và những kỹ năng chuyên môn bài bản.
Tình hình an toàn giao thông
Theo báo cáo của Ban an toàn giao thông từ ngày 16/3/2019 đến ngày 15/4/2019 trên địa bàn  tỉnh xảy ra 7 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 5 người chết và 3 người bị thương.
Tình hình cháy nổ:
Trong tháng 4 năm 2019, trên địa bàn tỉnh Thái Bình xảy ra 01 vụ cháy nổ, làm thương 01 người, ước tính thiệt hại khoảng 30 triệu đồng ./.
 
 
 
 
 

Tổng số điểm của bài viết là: 3 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 3 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây