TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH THÁI BÌNH THÁNG 3 NĂM 2024

Thứ năm - 28/03/2024 20:23
Đến thời điểm tháng 3/2024, hầu hết các tổ chức quốc tế đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024. Cụ thể, Liên hợp quốc (UN) nhận định trong bối cảnh rủi ro và bất ổn kéo dài, tăng trưởng GDP toàn cầu dự báo sẽ chậm lại từ mức 2,7% năm 2023 xuống 2,4% vào năm 2024; Ngân hàng Thế giới (WB) cùng nhận định tăng trưởng toàn cầu năm 2024 đạt 2,4%, giảm so với mức 2,6% trong năm 2023; Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) nhận định GDP toàn cầu năm 2024 dự báo đạt 2,9%, thấp hơn mức tăng trưởng 3,1% của năm 2023; Liên minh châu Âu (EU) dự báo tăng trưởng toàn cầu (không bao gồm EU) năm 2024 đạt 3,3%, giảm 0,2 điểm phần trăm so với năm 2023. Riêng Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2024 bằng với năm 2023, ở mức 3,1%.
Theo báo cáo “Triển vọng kinh tế khu vực ASEAN+3” của Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Vĩ mô ASEAN+3 (AMRO), khu vực ASEAN+3 (ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) được dự báo sẽ tăng trưởng 4,5% trong năm 2024 do thương mại quốc tế cải thiện sẽ thúc đẩy nhu cầu trong nước. Theo đó, AMRO dự báo tăng trưởng năm 2024 của một số quốc gia Đông Nam Á như sau: Phi-li-pin 6,3%, In-đô-nê-xi-a 5,2%, Ma-lai-xi-a 5,0%, Thái Lan 3,3% và Xin-ga-po 2,6%.
Đối với Việt Nam, trái ngược với xu hướng tăng trưởng thấp của năm trước, các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 tăng so với năm 2023. Cụ thể, WB dự báo tăng trưởng của Việt Nam đạt 5,5% trong năm 2024, cao hơn mức dự báo 4,7% của năm 2023; UN và AMRO đều nhận định tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam đạt 6,0%, cao hơn mức dự báo 4,7% và 5,1% của năm 2023.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Thái Bình (GRDP) xếp thứ 34 cả nước, thứ 9/11 tỉnh đồng bằng Sông Hồng.

TÌNH HÌNH KINH TẾ
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)
Quý I năm 2024, GRDP trên địa bàn tỉnh Thái Bình (giá so sánh 2010) ước tính đạt 15.526 tỷ đồng, tăng 5,31% so với cùng kỳ năm 2023, đứng thứ 9 vùng đồng bằng sông Hồng và xếp thứ 34 cả nước. Khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 2.972 tỷ đồng, tăng 2,28% so với cùng kỳ, đóng góp 0,45 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Khu vực công nghiệp và xây dựng ước đạt 6.5600 tỷ đồng, tăng 7,64% so với cùng kỳ, đóng góp 3,16 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng; trong đó: ngành công nghiệp tăng 10,01% (đóng góp 2,85 điểm phần trăm), ngành xây dựng tăng 2,39%. Khu vực dịch vụ ước đạt 4.960 tỷ đồng, tăng 5,33% so với cùng kỳ, đóng góp 1,7 điểm phần trăm. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước đạt 1.034 tỷ đồng, tương đương cùng kỳ năm trước.
Cơ cấu kinh tế tỉnh Thái Bình ước quý I năm 2024 (theo giá hiện hành) như sau: Ngành Nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 19,13%; ngành Công nghiệp - Xây dựng chiếm 41,15%; ngành Dịch vụ chiếm 33,25%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,48%.
Kết quả sản xuất các ngành
Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản
Quý I/2024, thời tiết thuận lợi cho sản xuất vụ Xuân, người dân gieo cấy tập trung đúng lịch thời vụ, lúa Xuân và cây màu Xuân bén rễ, sinh trưởng phát triển tốt. Hoạt động chăn nuôi đã được tăng cường duy trì và phát triển, dịch bệnh trên đàn vật nuôi được kiểm soát, sản xuất thuỷ sản phát triển ổn định được thể hiện kết quả cụ thể như sau:
Nông nghiệp
Trồng trọt
Kết quả sản xuất vụ Đông 2024
Sản xuất vụ Đông năm 2024 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Tiếp tục áp dụng các cơ chế, chính sách hỗ trợ người nông dân, thực hiện đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng mở rộng diện tích cây có năng suất, chất lượng, giá trị kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ rộng; mở rộng quy mô trồng trọt; chủ động áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, đưa cơ giới hóa vào sản xuất...
Kết quả sản xuất cây vụ Đông năm 2024 tổng diện tích gieo trồng toàn tỉnh là 37.236 ha, tăng 592 ha so với vụ Đông năm trước, cơ cấu diện tích gieo trồng những năm gần đây đã chuyển dịch theo hướng tăng diện tích các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ ổn định và tập trung với cây trồng chủ yếu như: ngô, khoai tây, khoai lang, rau các loại,...
 Vụ Đông năm 2024, nhìn chung là một trong những vụ Đông đạt được kế hoạch đề ra và cũng là một năm có sự cố gắng của toàn dân, sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo các cấp các ngành.
Gieo trồng vụ Xuân 2024
Đến ngày 23/2/2024, lúa Xuân cơ bản đã gieo cấy xong, hiện nay người dân đang chuyển trọng tâm sang chăm sóc lúa Xuân. Từ đầu tháng 12 năm 2023, đến nửa đầu tháng 02 năm 2024 Thái Bình chịu ảnh hưởng của 7 đợt không khí lạnh và không khí lạnh tăng cường đặc biệt đợt rét đậm rét hại kéo dài từ ngày 22 - 29/01/2024 trên địa bàn tỉnh có mưa, trời rét đậm, rét hại với nhiệt độ thấp nhất cả đợt là 8,4oC trùng với thời điểm gieo cấy lúa Xuân sớm, cây màu Xuân đầu vụ. Lượng mưa thấp hơn cùng kỳ nhiều năm (lượng mưa trung bình từ tháng 12/2023 đến tháng 02/2024 là 96,1 mm, thấp hơn trung bình nhiều năm 19,1 mm) khó khăn cho công tác chăm sóc lúa Xuân, cây màu Xuân từ đầu vụ tỉnh vẫn tập trung chỉ đạo khuyến khích mở rộng diện tích áp dụng biện pháp gieo mạ khay, cấy máy và sản xuất lúa theo hướng hữu cơ, sử dụng các giống có tiềm năng năng suất, chất lượng gạo ngon, các giống có khả năng chống chịu với các đối tượng sâu bệnh, các giống chuyển gen kháng bệnh (bạc lá, đạo ôn, cổ bông). Ngành nông nghiệp và các huyện, thành phố đang tập trung chỉ đạo các xã, thị trấn, HTX hoàn thành gieo cấy lúa Xuân đúng lịch thời vụ. Đồng thời, tiếp tục chỉ đạo, tuyên truyền, hướng dẫn các địa phương chăm bón, bảo vệ cây lúa, tổ chức diệt chuột, phòng, trừ sâu bệnh các loại bảo vệ sản xuất, thực hiện tốt công tác quản lý giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, tạo thuận lợi tốt nhất cho sản xuất vụ Xuân.
Gieo cấy lúa xuân: Theo tiến độ của Sở NN&PTNT tính đến ngày 21/3/2024, tổng diện tích lúa Xuân toàn tỉnh đã cấy 74.384 ha vượt 0,18% kế hoạch đề ra, thấp hơn 0,96% so với cùng kỳ năm 2023.
Gieo trồng cây màu vụ Xuân: Hiện nay toàn tỉnh đang tích cực tranh thủ xuống đồng thu hoạch diện tích cây màu đã đến kỳ thu hoạch, đẩy nhanh tiến độ gieo trồng và chăm sóc cây màu vụ Xuân. Tính đến ngày 21/3/2024, diện tích cây màu xuân đã trồng 14.264 ha, đạt 95,7% kế hoạch đề ra, thấp hơn 1,7% so với cùng kỳ năm 2023. Diện tích cây màu Xuân đã thu hoạch 3.906 ha đạt 27,3% diện tích cây màu Xuân.
Chăn nuôi
 Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh vẫn đang chuyển đổi theo hướng tích cực, theo đúng chủ trương, định hướng cơ cấu lại ngành, giảm chăn nuôi nhỏ lẻ, phát triển chăn nuôi trang trại, nông hộ chuyên nghiệp; cơ cấu con giống chuyển biến theo hướng tăng năng suất, chất lượng, giá trị. Công tác phòng chống dịch bệnh được duy trì thực hiện hiệu quả, nhất là công tác giám sát dịch bệnh, chỉ đạo thực hiện tiêm vắc xin phòng bệnh.
Chăn nuôi gia súc: Tổng đàn trâu, bò tại thời điểm 01.01.2024 ước đạt 59,7 nghìn con, tăng 1,7% so với cùng kỳ; trong đó đàn trâu ước đạt 7,2 nghìn con, tăng 1,1%; đàn bò ước đạt 52,5 nghìn con, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng tháng 3/2024 ước đạt 917 tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ; trong đó sản lượng thịt trâu ước đạt 90 tấn, tăng 2,3%; sản lượng thịt bò ước đạt 827 tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng quý I/2024 ước đạt 2.680 tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2023; trong đó sản lượng thịt trâu ước đạt 240 tấn, tăng 2,1%; sản lượng thịt bò ước đạt 2.440 tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước.
Chăn nuôi lợn: Quý I năm 2024, không có dịch bệnh lớn xảy ra, giá thức ăn chăn nuôi vẫn giữ ở mức cao, giá lợn hơi từ sau tết Nguyên đán đến nay ổn định từ 59-62 nghìn đồng/kg, người nuôi phần nào yên tâm tái đàn. Tình hình thời tiết rét, ẩm dịch bệnh nguy hiểm trên đàn gia súc gia cầm luôn tiềm ẩn cũng ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của vật nuôi. Ngành chăn nuôi tiếp tục hướng dẫn và khuyến cáo người nuôi thận trọng khi tái đàn, không nóng vội tái đàn khi chưa bảo đảm điều kiện cần thiết.
Tổng đàn lợn tại thời điểm tháng 01.01.2024 ước đạt 710 nghìn con, tăng 0,5% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tháng 3/2024 ước đạt 13,9 nghìn tấn, tăng 3% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I/2024 ước đạt 41,2 nghìn tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước .
Chăn nuôi gia cầm : Trong quý I/2023 tình hình thời tiết ổn định, dịch bệnh ít, số lượng đàn gia cầm duy trì phát triển tốt. Ước tính tổng đàn gia cầm thời điểm 01.01.2024 đạt 14,6 triệu con, tăng 2,2% so với cùng kỳ; trong đó, số lượng đàn gà đạt 10,4 triệu con, tăng 2%; số lượng đàn vịt đạt 3 triệu con, tăng 3,2% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng tháng 3/2024 ước đạt 4,8 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ; trong đó, sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng ước đạt 3,2 nghìn tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I/2024 ước đạt 14,9 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ; trong đó, sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng ước đạt 11 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ. Sản lượng trứng gia cầm tháng 3/2024 ước đạt 33,3 triệu quả, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước; trong đó sản lượng trứng gà ước đạt 13,5 triệu quả, tăng 2,1% so với cùng kỳ. Sản lượng trứng gia cầm quý I/2024 ước đạt 98,8 triệu quả, tăng 2,1% so với quý I/2023, trong đó sản lượng trứng gà quý I/2024 ước đạt 47,4 triệu quả, tăng 1,8% so với quý I/2023.
Thuỷ sản
Tình hình nuôi trồng thủy sản trong quý I/2024 của tỉnh ổn định. Các ao, hồ thả cá lưu vẫn tiếp tục đánh tỉa thả bù và chăm sóc. Diện tích mặt nước cho nuôi trồng thủy sản như ao, hồ, sông tích đủ nước, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con chuẩn bị xuống giống vụ nuôi trồng mới. Việc nuôi trồng thủy sản trên địa bàn đang được phát triển theo hướng đa dạng hóa đối tượng nuôi, phương thức nuôi với cơ cấu diện tích và sản lượng phù hợp từng vùng; đẩy mạnh áp dụng thực hành nuôi trồng thủy sản tốt, có chứng nhận và truy xuất nguồn gốc đối với các sản phẩm chủ lực.
Tổng sản lượng thủy sản tháng 3/2024 ước đạt 22,9 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ. Tổng sản lượng thủy sản quý I/2024 ước đạt 67,9 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ; trong đó, cá đạt 26,4 nghìn tấn, tăng 2,5%; tôm đạt 0,7 nghìn tấn, tăng 2,1%; thủy sản khác đạt 40,8 nghìn tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2023.
Khai thác
Thời tiết sau tết Nguyên đán thuận lợi cho việc khai thác hải sản, thời điểm đầu năm các loại cá sẽ đi theo luồng gần bờ, do đó việc đánh bắt đơn giản hơn, không mất nhiều thời gian, lại tiết kiệm nhiên liệu. Vì vậy, ngư dân trong vùng sẽ thường xuyên ra khơi khai thác hải sản.
Sản lượng khai thác tháng 3/2024 ước đạt 9,4 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ; trong đó, cá đạt 6 nghìn tấn, tăng 2,3%; tôm đạt 0,1 nghìn tấn, tăng 2,1%; thủy sản khác đạt 3,3 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ. Sản lượng khai thác quý I/2024 ước đạt 26,8 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 16,7 nghìn tấn, tăng 2,4%; tôm đạt trên 0,4 nghìn tấn, tăng 1,6%; thủy sản khác đạt 9,6 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ.
Nuôi trồng
Nuôi trồng thủy sản vẫn luôn là thế mạnh của các địa phương trong tỉnh đặc biệt sản lượng ngao luôn đóng góp lớn cho sự phát triển nuôi trồng thủy sản của tỉnh. Diện tích nuôi trồng được duy trì khá ổn định hàng năm, hình thúc nuôi thâm canh, bán thâm canh được mở rộng.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản tháng 3/2024 ước đạt 13,4 nghìn tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ; trong đó, cá đạt 3 nghìn tấn, tăng 2,4%; tôm đạt trên 0,1 nghìn tấn, tăng 2,3%; thủy sản khác đạt 10,3 nghìn tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng quý I/2024 ước đạt 41,1 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 9,7 nghìn tấn, tăng 2,7%; tôm đạt 0,3 tấn, tăng 2,7%; thủy sản khác đạt 31,1 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước.
Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Quý I năm 2024, (IIP) ước tăng 5,45% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 15,27%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 0,38%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 26,38%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,2%.
Chỉ số sản xuất quý I năm 2024 của một số ngành trọng điểm thuộc ngành công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 26,38%; ngành thoát nước và xử lý nước thải tăng 1,48 lần; ở chiều ngược lại, ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 33,6%; sản xuất thiết bị điện giảm 48,98%.
Một số sản phẩm chủ yếu
- Sản phẩm khí tự nhiên dạng khí
Dự kiến tháng 3/2024 ước đạt 2,6 triệu m3 khí, giảm 0,4% (-0,01 triệu m3 khí) so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024 ước đạt 6,25 triệu m3 khí, giảm 8,75% (-0,6 triệu m3 khí). Nguyên nhân do đơn giá khí cao, các doanh nghiệp hạn chế dùng khí để sản xuất kinh doanh nên lượng tiêu thụ và giá trị thấp.
- Sản phẩm dệt (sợi và khăn)
 Sản phẩm sợi từ bông dự kiến tháng 3/2024 ước đạt 6 nghìn tấn, giảm 3,03% (-186,24 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024 ước đạt 16 nghìn tấn, tăng 5,48% (+836 tấn).
 Sản phẩm khăn mặt, khăn tắm và các loại khăn khác dùng trong phòng vệ sinh, nhà bếp tháng 3/2024 ước đạt 5,5 nghìn tấn, giảm 2,6% (-146 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024 ước đạt 14 nghìn tấn, giảm 5,68% (-841,56 tấn).
- Sản phẩm trang phục
Sản phẩm may quần áo các loại tháng 3/2024 ước đạt 7,4 triệu chiếc, giảm 27,13% (-2,7 triệu chiếc) so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024 ước đạt 22,7 triệu chiếc, giảm 13,32% (-3,5 triệu chiếc). Nguyên nhân sản phẩm may giảm so với cùng kỳ năm trước do hầu hết các doanh nghiệp ngành may đang gặp tình trạng thiếu đơn hàng sản xuất, đơn hàng các đối tác ký ở mức nhỏ lẻ, đơn giá thấp, mặt khác giá nguyên liệu, phụ liệu của ngành may mặc, dịch vụ logistics tăng cao cũng ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và lợi nhuận, làm cho doanh nghiệp càng khó khăn hơn.
- Sản phẩm sắt thép các loại
Sắt, thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tháng 3/2024 ước đạt 35,4 nghìn tấn, giảm 33,96% (-18,2 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024 ước đạt 129 nghìn tấn, tăng 12,24% (+14 nghìn tấn).
Sắt, thép không hợp kim cán phẳng không gia công quá mức cán nóng, dạng cuộn, có chiều rộng ≥ 600mm, chưa được dát phủ, mạ hoặc tráng tháng 3/2024 ước đạt 15,5 nghìn tấn, giảm 42,31% (-11,4 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024 ước đạt 68,1 nghìn tấn, tăng 15,94% (+9,4 nghìn tấn).
Cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại tháng 3/2024 ước đạt 3,2 nghìn tấn, tăng 37,61% (+876 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024 ước đạt 8 nghìn tấn, tăng 58,06% (+2,9 nghìn tấn).
- Sản phẩm phụ tùng và bộ phận phụ trợ cho xe có động cơ và động cơ xe
Bộ dây đánh lửa và bộ dây khác sử dụng cho xe có động cơ tháng 3/2024 ước đạt 850 nghìn bộ, tăng 40,84% (+246 nghìn bộ) so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024 ước đạt 2,4 triệu bộ, tăng 25,9% (+486 nghìn bộ).
Cần gạt nước, sương, tuyết trên kính chắn tháng 3/2024 ước đạt 1,4 triệu cái, giảm 11,06% (-176,5 nghìn cái) so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024 ước đạt 4,9 triệu cái, tăng 1,01% (+48,7 nghìn cái).
Túi khí an toàn tháng 3/2024 ước đạt 543 nghìn cái, tăng 45,67% (+170 nghìn cái) so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024 ước đạt 1,7 triệu cái, tăng 69,93% (+709 nghìn cái).
- Điện và phân phối điện
Điện sản xuất tháng 3/2024 ước đạt 550,2 triệu KWh, giảm 4,57% (-26,38 triệu KWh) so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024 ước 2.020 triệu KWh, tăng 27,98% (+441,86 triệu KWh) do đóng góp của Ban Quản lý dự án Điện lực Dầu khí Thái Bình II đã đi vào hoạt động sản xuất.
Điện thương phẩm tháng 3/2024 ước đạt 295 triệu KWh, tăng 14,34% (+37 triệu KWh) so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2024 ước đạt 833,5 triệu KWh, tăng 10,84% (+81,5 triệu KWh).
Đầu tư – xây dựng
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Thái Bình quý I/2024 dự kiến đạt 16.033 tỷ đồng, tăng 20,4% so với cùng kỳ năm trước (năm 2023 đạt 12.484,8 tỷ đồng, tăng 6%).
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước quý I/2024 ước đạt 1.513,2 tỷ đồng, bằng 17,1% kế hoạch năm và tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 bằng 19,4% kế hoạch và tăng 40,78%).
Một số dự án trọng điểm đầu tư khởi công mới trong quý I năm 2024
Trong đầu quý I năm 2024, nhiều dự án trọng điểm được khởi công, động thổ, hứa hẹn cho một năm bội thu thực hiện đầu tư của Thái Bình:
Dự án đường dây 500kV từ Quảng Trạch (Quảng Bình) đến Phố Nối (Hưng Yên) có tổng chiều dài khoảng 519km, điểm đầu là Trung tâm điện lực Quảng Trạch, điểm cuối là Trạm biến áp 500kV Phố Nối; dự án đi qua 9 tỉnh gồm: Quảng Bình (1,69km), Hà Tĩnh (141,52km), Nghệ An (100,04km), Thanh Hoá (131,77km), Ninh Bình (7,83km), Nam Định (55,08km), Thái Bình (38,93km), Hải Dương (30,79km), Hưng Yên (11,27km). Tổng mức đầu tư các Dự án là hơn 22.356 tỷ đồng, do Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT) thuộc EVN làm chủ đầu tư; Dự án có quy mô xây dựng mới đường dây 500kV mạch kép, chiều dài khoảng 74,4km từ sân phân phối 500kV Nhà máy Nhiệt điện Nam Định 1 đến Trạm biến áp 500kV Thanh Hóa. Dư án đi qua các tỉnh: Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Thái Bình;
Đây là dự án có tính chất đặc biệt quan trọng, tăng thêm năng lực truyền tải giữa miền Trung và miền Bắc từ mức 2.200MW lên khoảng 5.000MW. Dự án có chiều dài 514km, với tổng vốn đầu tư khoảng 23.000 tỷ đồng, bao gồm: 4 cung đoạn Quảng Trạch-Quỳnh Lưu; Quỳnh Lưu-Thanh Hóa; Thanh Hóa-Nam Định 1; Nam Định 1-Phố Nối; theo kế hoạch, năm 2025-2026 sẽ đưa dự án vào vận hành, nhưng với tình hình căng thẳng điện tại miền Bắc, Thủ tướng yêu cầu đẩy nhanh tiến độ dự án, tới tháng 6/2024 phải hoàn thành để tăng cung ứng điện cho miền Bắc; dự án có tổng vốn đầu tư khoảng 3.086,827 tỷ đồng. Trong đó, vốn chủ sở hữu 925,830 tỷ đồng, chiếm 30% giá trị tổng mức đầu tư được phân bổ theo kế hoạch; vốn vay ngân hàng thương mại là 2.160,9 tỷ đồng, chiếm 70% giá trị tổng mức đầu tư (bao gồm thuế GTGT). Vốn đầu tư đoạn 38,93km của Thái Bình khoảng 1.783,1 tỷ đồng.
Dự án nhà máy Pegavision Việt Nam tại khu công nghiệp Liên Hà Thái (Khu kinh tế Thái Bình); dự án chuyên sản xuất kính áp tròng, thiết bị y tế với công suất thiết kế 600 triệu sản phẩm/năm, tổng vốn đầu tư 200 triệu USD. Khi đi vào hoạt động ổn định, dự kiến doanh thu của dự án đạt khoảng 2.800 tỷ đồng/năm, nộp ngân sách nhà nước khoảng 86 tỷ đồng/năm, giải quyết việc làm cho 1.140 lao động. Nhà đầu tư, tổng thầu thi công phấn đấu hoàn thành xây dựng, lắp đặt máy móc phục vụ sản xuất giai đoạn I của dự án trong quý IV năm 2024 và sẽ khởi công xây dựng dự án giai đoạn II vào quý IV năm 2027.
Dự án sản xuất máy vi tính và thiết bị ngoại vi của Công ty TNHH Công nghệ Goodway tại Khu công nghiệp Liên Hà Thái; đây là dự án FDI thứ ba trong ngành thiết bị bán dẫn đầu tư và sẵn sàng đi vào hoạt động tại KCN tiên phong trong Khu kinh tế Thái Bình; dự án nhà máy Good Way Việt Nam được xây dựng trên diện tích 50.000m2 tại lô E2, KCN Liên Hà Thái. Dự án được phân kỳ đầu tư làm 2 giai đoạn, trong đó giai đoạn 1 với 44.000m2, giai đoạn 2 là 6.000m2. Tổng vốn đầu tư của dự án gần 1.100 tỷ đồng, tương đương 45 triệu USD. Nhà máy Good Way Việt Nam tại KCN Liên Hà Thái là dự án chuyên sản xuất máy vi tính và các thiết bị ngoại vi của máy vi tính như cổng chuyển đổi Google, các cổng chuyển đổi khác: Docks, Hub, Adapters và cổng chuyển đổi video. Nhà máy cũng sản xuất cổng chuyển đổi Thunderbolt, cổng chuyển đổi USB 1, USB 2, USB 3 và cổng chuyển đổi Travel, Hub. Công suất thiết kế của nhà máy khi hoàn thành toàn bộ dự án sẽ đạt 3.700.000 sản phẩm/năm. Trong đó, giai đoạn 1 năng lực sản xuất của nhà máy đạt 1.850.000 sản phẩm/năm, bao gồm 200.000 sản phẩm cổng chuyển đổi Google và Docks, Hub, Adapters và cổng chuyển đổi video, 200.000 sản phẩm cổng chuyển đổi Thunderbolt, 200.000 sản phẩm cổng chuyển đổi USB 1, 350.000 sản phẩm cổng chuyển đổi USB 2, 400.000 sản phẩm cổng chuyển đổi USB 3, 500.000 sản phẩm cổng chuyển đổi Travel, Hub. Theo tính toán của nhà đầu tư, năm doanh thu ổn định của nhà máy đạt khoảng 4.400 tỷ đồng, dự kiến nộp ngân sách nhà nước sau khi hết thời gian hưởng cơ chế ưu đãi khoảng 307 tỷ đồng/năm, dự án sẽ tạo việc làm cho hơn 600 lao động.
Dự án xây dựng nhà máy sản xuất, gia công các loại sản phẩm đồ chơi trẻ em của công ty TNHH Fantasy Tech tại khu công nghiệp Liên Hà Thái, vốn đầu tư 1.091 tỷ đồng.
Dự án sản xuất thiết bị chiếu sáng của Công ty TNHH Goodway Cayman (Trung Quốc), tại Khu Công nghiệp Liên Hà Thái, vốn đầu tư 599,5 tỷ đồng.
Dự án xây dựng nhà máy sản xuất chai, lọ đựng mỹ phẩm bằng thủy tinh của công ty Humic (Hàn Quốc), vốn đầu tư 141.4 tỷ đồng, dự kiến quý I đạt 40 tỷ đồng.
Dự án xây dựng nhà máy sản xuất rượu Soju của công ty Hitejinro (Hàn Quốc), vốn đầu tư 2.439 tỷ đồng, dự kiến quý I đạt 208 tỷ đồng.
Dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất dụng cụ cơ khí J&W Việt Nam của công ty TNHH khoa học kỹ thuật J&W, vốn đầu tư 303,2 tỷ đồng, dự kiến quý I đạt 65 tỷ đồng.
Dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất dụng cụ công nghiệp Weisheng Việt Nam, vốn đầu tư 218,7 tỷ đồng, dự kiến quý I đạt 30 tỷ đồng.
Dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất bơm Xinyu Việt Nam, vốn đầu tư 163,2 tỷ đồng, dự kiến quý I đạt 31,6 tỷ đồng.
Dự án xây dựng nhà máy Rapid Vision Việt Nam (Hồng Kông), vốn đầu tư 305 tỷ đồng, dự kiến quý I đạt 36 tỷ đồng.
Dự án dầu tư xây dựng nhà máy sản xuất dây cáp thép không gỉ Hongyue Việt Nam, vốn đầu tư 179,3 tỷ đồng, dự kiến quý I đạt 46,5 tỷ đồng.
Dự án nhà máy Keystone Electrical VN của công ty Galaxia Tech Pte.Ltd, vốn đầu tư 980 tỷ đồng, dự kiến quý I đạt, 80 tỷ đồng…
Thương mại, dịch vụ và giá cả
Hoạt động thương mại, dịch vụ tháng ba năm 2024 sức mua giảm do sau tết nhu cầu tiêu dùng giảm. Tuy nhiên đầu năm nhu cầu du xuân, thăm quan, lễ hội của người dân tăng đã tác động tăng doanh thu cho ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống và vận tải hành khách.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 3 năm 2024 ước đạt 6.416 tỷ đồng, giảm 4,3% so với tháng trước và tăng 16,4% so với cùng kỳ.
Tính chung quý I năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 19.616 tỷ đồng, tăng 15,9% so với cùng kỳ, do tác động từ giá cả hàng hóa trong 3 tháng đầu năm tăng và xu hướng tiêu dùng tăng. Trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 17.292 tỷ đồng (chiếm 88,1% tổng mức), tăng 16,5%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành ước đạt 1.329 tỷ đồng (chiếm 6,8% tổng mức), tăng 9,5%; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 996 tỷ đồng (chiếm 5,1% tổng mức), tăng 15,3% so với cùng kỳ.
Giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3 năm 2024 giảm 0,07% so với tháng trước, tăng 5,89% so với cùng tháng năm trước, tăng 2,11% so với tháng 12 năm trước. Trong mức giảm 0,07% của CPI tháng 3/2024 so với tháng trước có: 04 nhóm hàng hóa và dịch vụ giảm giá, 02 nhóm hàng tăng giá và 05 nhóm hàng có giá ổn định.
Một số nguyên nhân tác động đến chỉ số giá tháng 3/2024 so với tháng trước: Nhóm giao thông giảm 0,94% tác động CPI chung giảm 0,67 điểm phần trăm, tác động chủ yếu ở giá ô tô giảm 5,65% do nhà sản xuất điều chỉnh giá giảm, ngoài ra trong ngày 7/3/2024 và ngày 15/3/2024 giá xăng dầu giảm (xăng 95 giảm 380 đồng/lít; xăng E5 giảm 270 đồng/lít; dầu điezen giảm 440 đồng/lít; dầu hỏa giảm 320 đồng/lít), ngày 01/3/2024 và ngày 22/3/2024 giá xăng dầu tăng (xăng 95 tăng 1.080 đồng/lít; xăng E5 tăng 1.030 đồng/lít; dầu điezen tăng 540 đồng/lít; dầu hỏa tăng 660 đồng/lít). Nhu cầu tiêu dùng sau tết Nguyên đán giảm cũng tác động đến giá lương thực, thực phẩm giảm (giá lương thực giảm 0,05%, giá thực phẩm giảm 0,06%), tác động đến chỉ số giá tháng 3 giảm so với tháng trước.
Bình quân quý I năm 2024, CPI tăng 4,78% so với cùng kỳ năm trước. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính, chỉ có nhóm bưu chính viễn thông ổn định, còn lại 10 nhóm hàng  tăng giá: Nhóm giáo dục tăng cao nhất (+28,53%) do địa phương tăng giá học phí tháng 9,10 năm 2023 tác động làm CPI tăng 15,17 điểm phần trăm; nhóm thuốc và dịch vụ y tế (+15,10%) tác động làm tăng CPI tăng 9,54 điểm phần trăm, do áp dụng tăng giá khám chữa bệnh và các dịch vụ khám bệnh từ Bộ Y tế; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác (+8,09%) tác động làm CPI tăng 3,21 điểm phần trăm, chủ yếu do giá đồ trang sức tăng, tác động trực tiếp từ giá vàng tăng; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+3,76%) tác động làm CPI tăng 0,89 điểm phần trăm, chủ yếu do gạo địa phương nguồn cung sụt giảm nhu cầu tiêu dùng tăng cao, tại thời điểm tháng 2 tháng tết, hầu hết giá đồ ăn, uống ngoài gia đình đều áp dụng tăng giá trong 15 ngày tết.; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+2,48%) do tác động từ chính sách cấm khai thác và hạn chế đi lại tàu bè của địa phương từ cuối tháng 12/2023 đẩy giá cát đá tăng cùng điều chỉnh tăng giá sắt thép của nhà phân phối, tác động làm CPI tăng 0,57 điểm phần trăm; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch (+1,00%) tác động làm CPI tăng 0,34 điểm phần trăm; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,69%) tác động làm CPI tăng 0,46 điểm phần trăm; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép (+0,37%) tác động làm CPI tăng 0,20 điểm phần trăm; nhóm giao thông (+0,11%) tác động làm CPI tăng 0,07 điểm phần trăm, do tác động từ nhu cầu đi lại tăng cao tại thời điểm tháng 2/2024 Tết nguyên đán hầu hết các nhà xe áp giá từ 20 âm lịch đến hết ngày mùng 5 tết Nguyên đán đẩy giá cước quý I tăng 1,82% so với cùng kỳ năm trước, ngược lại nhằm kích cầu tiêu dùng sau tết một số hãng xe đặc biệt là ô tô áp dụng giảm giá hỗ trợ giá.
 Xuất nhập khẩu hàng hoá
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa ba tháng đầu năm 2024 tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm 2023. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 1.011 triệu USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu tăng 13,1%, nhập khẩu giảm 0,7%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 193 triệu USD.
Xuất khẩu
Tính chung quý I năm 2024, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 602 triệu USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ; trong đó: Kinh tế tư nhân đạt 346 triệu USD, tăng 13,5%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 256 triệu USD, tăng 12,5%. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước như: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 1,9 triệu USD, tăng 3,2 lần; sản phẩm từ sắt thép 8,6 triệu USD, tăng 66,8%; sản phẩm gỗ 3,2 triệu USD, tăng 58,1%; phương tiện vận tải và phụ tùng 30,7 triệu USD, tăng 89,4%; xơ, sợi dệt các loại 40,8 triệu USD, tăng 28,2%; giày dép các loại 73,1 triệu USD, tăng 27,8%; hàng hóa khác 118,4 triệu USD, tăng 27,9%;... Ngược lại một số sản phẩm giảm như: sản phẩm mây, tre, cói và thảm giảm 34,9%; hàng dệt may giảm 2,5%;...
Theo thị trường xuất khẩu hàng hóa quý I năm 2024, Châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của tỉnh đạt 339 triệu USD (chiếm 51,3%), tăng 17% so với cùng kỳ; tiếp đến là Châu Mỹ đạt 160 triệu USD (chiếm 26,6%), tăng 13,5%; Châu Âu đạt 62 triệu USD (chiếm 10,3%), tăng 30,8%.
Nhập khẩu
Tính chung quý I năm 2024, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 409 triệu USD, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước. Theo loại hình kinh tế: kinh tế tư nhân đạt 186 triệu USD, giảm 21,8%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 229 triệu USD, tăng 28,3%. Các mặt hàng có mức tăng cao so với cùng kỳ như: hàng thủy sản 0,8 triệu USD (+2,6 lần); sắt thép các loại 8,8 triệu USD (+2,2 lần); xơ, sợi dệt các loại 30,4 triệu USD (+1,6 lần); máy vi tính, sản phẩm điện tử 2,1 triệu USD (+1,3 lần); thức ăn gia súc và nguyên liệu 2,2 triệu USD (+1,1 lần); dây điện và dây cáp điện 10,7 triệu USD (+61,1%); nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 84,8 triệu USD (+24%);… Ngược lại một số sản phẩm giảm như: bông các loại (-28%); máy móc, thiệt bị, phụ tùng khác (-11,7%); hóa chất (-0,5%).
Theo thị trường nhập khẩu hàng hóa quý I năm 2024, Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của tỉnh ước đạt 342,4 triệu USD (chiếm 83,6%), tăng 0,1% so với cùng kỳ; tiếp đến là Châu Âu đạt 19,3 triệu USD, tăng 25,4%; Châu Mỹ đạt 11,4 triệu USD.
Hoạt động vận tải
Những tháng đầu năm nhu cầu đi lại, du xuân vãng cảnh, lễ hội của người dân tăng cao đã góp phần tăng doanh thu cho vận tải hành khách. Sản xuất công nghiệp, xây dựng có mức tăng trưởng cao đem lại doanh thu cho vận tải hàng hóa. Bên cạnh đó giá cước vận tải ở hầu hết các ngành đường tăng đã tác động tăng doanh thu hoạt động vận tải. Tổng doanh thu hoạt động vận tải tháng 3/2024 ước đạt 725 tỷ đồng, tăng 2% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ. Tính chung quý I năm 2024, tổng doanh thu hoạt động vận tải ước đạt 2.180 tỷ đồng, tăng 11,5% so với cùng kỳ; trong đó vận tải hành khách tăng 16,2%, vận tải hàng hóa tăng 9,5%.
Vận tải hành khách
Tính chung quý I năm 2024, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 651 tỷ đồng, tăng 16,2% so với cùng kỳ; khối lượng hành khách vận chuyển ước đạt 8,8 triệu lượt khách, tăng 16,5%; khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 989 triệu lượt khách.km, tăng 15,9% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hoá
Tính chung quý I năm 2024, doanh thu vận tải hàng hoá ước đạt 1.507 tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 9,3 triệu tấn, tăng 9,6%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 3.228 triệu tấn.km, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước.
Thu chi ngân sách
Tổng thu ngân sách Nhà nước quý I năm 2024 ước đạt 7.454,4 tỷ đồng, đạt 38,2% so với dự toán, giảm 18,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa ước đạt 1.899 tỷ đồng, tăng 0,2%; thu thuế xuất, nhập khẩu ước đạt 157,5 tỷ đồng, giảm 75,9%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt 2.055 tỷ đồng, tăng 26,9%.
Tổng chi ngân sách địa phương quý I năm 2024 ước đạt 4.607,1 tỷ đồng, giảm 1,3% so với cùng kỳ; trong đó, chi phát triển kinh tế ước đạt 2.320 tỷ đồng, giảm 14,8%; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt 2.266,2 tỷ đồng, tăng 22,8% so với cùng kỳ năm trước.
TÌNH HÌNH VĂN HÓA XÃ HỘI
Lao động, việc làm
Quý I/2024, tổng số đơn vị có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài là 55 đơn vị với 235 vị trí công việc và cấp giấy phép lao động cho 199 lao động nước ngoài; Hướng dẫn 05 doanh nghiệp xây dựng nội quy lao động tại doanh nghiệp; 37 doanh nghiệp tổ chức huấn luyện ATVSLĐ cho 4.780 lao động; 16 doanh nghiệp kiểm định, khai báo sử dụng 89 loại máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ; Số lao động có việc làm tăng thêm là 7.700 lao động (đạt kế hoạch), trong đó: việc làm tại địa phương 5.640 lao động, đi làm việc ở tỉnh ngoài 1.600 lao động, đi làm việc ở nước ngoài 460 lao động, Tư vấn giới thiệu việc làm cho 5.553 người; thực hiện chính sách trợ cấp thất nghiệp cho 1.879 trường hợp.
Trợ cấp xã hội, lĩnh vực người có công
Quý I/2024 có 110.450 đối tượng đang hưởng chính sách trợ giúp xã hội tại cộng đồng, trong đó 44.286 người cao tuổi, 51.963 người khuyết tật, còn lại là các đối tượng khác; 832 đối tượng được chăm sóc nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó 415 đối tượng ở cơ sở công lập, 417 đối tượng ở cơ sở ngoài công lập. Tổng số hộ nghèo toàn tỉnh là 11.925 hộ, đạt tỷ lệ 1,82% (giảm 2.155 hộ, giảm 0,32% so với năm 2022); Tổng số hộ cận nghèo toàn tỉnh là 12.587 hộ, đạt tỷ lệ 1,92% (giảm 2.276 hộ, giảm 0,34% so với năm 2022). Nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn năm 2024, toàn tỉnh đã tặng 87.638 suất quà cho hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh, (đảm bảo 100% hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn được tặng quà) với tổng kinh phí 41,39 tỷ đồng. Hỗ trợ tiền ăn cho 887 đối tượng bảo trợ xã hội khác với kinh phí 696 triệu đồng. Toàn tỉnh có 51.143 người cao tuổi được chức tổ chức chúc thọ, mừng thọ, kinh phí gần 20 tỷ đồng.
Trong quý I/2024, tiếp nhận 2.900 lượt thủ tục hành chính, (trong đó tại Trung tâm Phục vụ hành chính công là 2.379 thủ tục), đã giải quyết 2.672 lượt thủ tục, còn lại đang trong thời hạn giải quyết, không có thủ tục quá hạn. Các thủ tục tại Trung tâm Phục vụ HCC gồm: Sửa đổi thông tin cá nhân trong hồ sơ người có công đối với 333 TH; giải quyết chế độ thờ cúng liệt sỹ 421 trường hợp; Giải quyết chế độ mai táng phí đối với cựu chiến binh 333 trường hợp; giải quyết thêm chế độ trợ cấp đối với thương binh đồng thời là bệnh binh, thương binh đang hưởng trợ cấp mất sức lao động đối với 52 trường hợp; cấp giấy chứng nhận người có công và giấy chứng nhận thân nhân liệt sỹ đối với 149 trường hợp; Giải quyết chế độ đối với thân nhân sau khi người có công với cách mạng từ trần 798 trường hợp; Công nhận và giải quyết chế độ ưu đãi người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đối với 67 trường hợp và các thủ tục khác liên quan.
Thực hiện thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, toàn tỉnh đã tặng 251.327 suất quà cho người có công với cách mạng và thân nhân, kinh phí 103 tỷ đồng nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn năm 2024.
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS
Tính đến tháng 02/2024 trên địa bàn tỉnh hiện có: 2.312 người HIV/AIDS (242/260 xã); 1.371 bệnh nhân điều trị Methadone tại 10 cơ sở điều trị ngoại trú trong tỉnh. Quản lý và điều trị 1.459 bệnh nhân điều trị ARV, 100% bệnh nhân nhiễm HIV điều trị có thẻ BHYT. 100% người nhiễm HIV được hỗ trợ mua và đóng nối thẻ BHYT hằng năm. Hệ thống giám sát, đánh giá chương trình HIV/AIDS được triển khai đồng bộ.
Tình hình dịch bệnh
Ghi nhận 15 trường hợp mắc chân tay miệng tăng 05 ca so với cùng kỳ năm 2023, các ca mắc tập trung ở nhóm trẻ dưới 3 tuổi, không ghi nhận ca tử vong; 98 trường hợp mắc thủy đậu giảm hơn so với cùng kỳ năm 2023 là 9 trường hợp); Các bệnh truyền nhiễm khác có xu hướng giảm hơn so với cùng kỳ năm 2023; Không ghi nhận ca bệnh truyền nhiễm như Cúm A/H5N1, H7N9….
Chương trình phòng chống sốt xuất huyết và sốt rét: Toàn tỉnh đã ghi nhận tổng số 24 ca mắc Sốt xuất huyết, trong đó có 07 ca nội sinh tăng 08 ca so với cùng kỳ 2023, không có trường hợp tử vong. Toàn tỉnh không phát hiện bệnh nhân sốt rét.
Dịch bệnh Covid-19 tiếp tục được kiểm soát tốt, số ca bệnh ghi nhận tính đến 14/2 duy trì ở mức thấp với 15 trường hợp bệnh được báo cáo (tương đương giai đoạn cuối năm 2023). toàn tỉnh đã triển khai được 4.358.203 mũi tiêm chủng vắc xin COVID-19.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Ngành Y tế đã tham mưu cho Ban chỉ đạo ATVSTP tỉnh ban hành các văn bản quan trọng chỉ đạo tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát công tác đảm bảo ATTP trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục thực hiện lấy mẫu giám sát mối nguy về an toàn thực phẩm, giải quyết các TTHC và đăng tải công khai trên cổng thông tin điện tử của đơn vị theo quy định của pháp luật.
Thống kê 03 tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh không ghi nhận vụ ngộ độc thực phẩm đông người.
Hoạt động giáo dục
Sở Giáo dục và Đào tạo đã chủ động quán triệt và thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của cấp trên về việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, tích cực thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo; chủ trì tham mưu trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành 01 văn bản quy phạm pháp luật Quyết định ban hành Quy định về tiêu chí lựa chọn SGK trong cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, cơ sở giáo dục thực hiện nghiêm túc các quy định về việc chấp hành an ninh trật tự, an toàn giao thông, phòng chống cháy, nổ, đốt pháo nổ trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn năm 2024.
Hiện tại, ngành Giáo dục có 745 cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên (trong đó, 303 cơ sở giáo dục mầm non (17 trường mầm non tư thục, tăng 01 trường so với năm học trước), 120 trường tiểu học, 106 trường THCS, 167 trường TH&THCS, 39 trường THPT, 01 trường TH, THCS, THPT, 01 Trung tâm GDTX tỉnh, 08 trung tâm GDNN-GDTX huyện, thành phố); tổng số 415.806 trẻ nhà trẻ, mẫu giáo và học sinh phổ thông (trong đó có: 90.824 trẻ nhà trẻ và mẫu giáo; 141.685 học sinh tiểu học, 113.182 học sinh THCS, 59.448 học sinh THPT, 10.667 học viên giáo dục thường xuyên); ngoài ra, trên địa bàn tỉnh có 382 cơ sở giáo dục thường xuyên khác.
Quý I/2024, Sở GDĐT đã xây dựng và triển khai kế hoạch giới thiệu sách giáo khoa lớp 5, lớp 9, lớp 12 trong các cơ sở giáo dục phổ thông năm học 2024-2025; xây dựng dự thảo về Tiêu chí lựa chọn sách giáo khoa sử dụng trong các cơ sở giáo dục phổ thông; xây dựng các văn bản hướng dẫn tổ chức lựa chọn sách giáo khoa lớp 5, lớp 9, lớp 12 trong các cơ sở giáo dục phổ thông năm học 2024-2025.
Chủ động thực hiện các giải pháp hoàn thành nhiệm vụ học kỳ I, triển khai nhiệm vụ năm học 2023-2024; thực hiện tốt các kỳ thi, cuộc thi cho học sinh và giáo viên trong toàn ngành (Cuộc thi KHKT học sinh trung học cấp tỉnh, Kỳ thi chọn Học sinh giỏi quốc gia, Hội khỏe Phù Đổng tỉnh Thái Bình, Hội thi Giáo viên mầm non dạy giỏi cấp tỉnh; Kỳ thi chọn học sinh giỏi lớp 10, lớp 11THPT cấp tỉnh …). Quy mô, mạng lưới trường lớp tiếp tục ổn định, chất lượng giáo dục các cấp học tiếp tục được cải thiện; chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã và đang được triển khai bài bản, đạt chất lượng và hiệu quả tích cực.
Kỉ cương, nền nếp, an toàn trường học tiếp tục được thực hiện tốt; cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học tiếp tục được quan tâm đầu tư; công tác xã hội hóa giáo dục ngày càng mở rộng; thực hiện nghiêm túc công tác công khai, kiểm định chất lượng giáo dục; ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong ngành Giáo dục tiếp tục thực hiện hiệu quả.
Văn hoá - Thể thao
Tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành văn bản chỉ đạo tăng cường công tác quản lý, tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và lễ hội trước, trong và sau Tết Nguyên đán Giáp Thìn năm 2024; tham mưu các văn bản trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về: Thẩm định dự án tu bổ, tôn tạo di tích đình Thuận An, xã Việt Thuận, huyện Vũ Thư và miếu Đông, xã Dương Hồng Thủy, huyện Thái Thụy; đề nghị Chính phủ cho phép trình UNESCO hồ sơ “Nghệ thuật Chèo” ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; đưa lễ hội truyền thống làng La Vân, xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ và nghề làm muối biển, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Phối hợp với Ủy ban nhân dân huyện Hưng Hà tổ chức thành công khai mạc lễ hội đền Trần năm 2024. Hoàn thiện dự thảo Quyết định về việc ban hành Quy định xét tặng giải thưởng Lê Quý Đôn, lĩnh vực Văn học Nghệt thuật. Chỉ đạo Bảo tàng tỉnh tổ chức hội chợ quê và phố ông Đồ tại khuôn viên Bảo tàng tỉnh phục vụ hoạt động vui chơi, giải trí và tuyên truyền, giáo dục văn hóa truyền thống của quê hương tới toàn thể nhân dân; tổ chức nghệ thuật trình diễn và giao lưu các Câu lạc bộ thư pháp tại lễ hội đền Trần. Trong quý I, Bảo tàng tỉnh mở cửa, phục vụ 2.100 lượt người tham quan tại Bảo tàng, 09 đoàn với 600 học sinh tham quan và trải nghiệm các trò chơi dân gian truyền thống tại Bảo tàng và 09 đoàn dâng hương tại Đền thờ mẹ Việt Nam anh hùng.
Chỉ đạo Trung tâm Văn hóa tỉnh hướng dẫn Trung tâm Văn hóa - Thể thao các huyện, thành phố tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt câu lạc bộ tại các cơ sở; chỉ đạo đội thông tin lưu động các huyện, thành phố xây dựng chương trình phục vụ nhân dân trong dịp nghỉ Tết; tổ chức các hoạt động kỷ niệm 94 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; 134 năm ngày thành lập tỉnh (21/03/1890-21/03/2024), trong đó các các hoạt động nổi bật như: Chương trình văn nghệ Dâng Đảng những cung đàn mùa Xuân; Giao lưu các câu lạc bộ Chèo toàn tỉnh tại lễ hội đền Trần; Giao lưu Ca nhạc, vũ quốc tế chào mừng kỷ niệm 134 năm Ngày thành lập tỉnh; tổ chức lớp tập huấn múa; dàn dựng chương trình tham gia Hội thi Tuyên truyền lưu động toàn quốc kỷ niệm 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Sở đã ban hành kế hoạch tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện vận động viên các đội tuyển thể thao; chỉ đạo Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao thực hiện tốt công tác quản lý vận động viên, duy trì việc giảng dạy, huấn luyện đảm bảo theo kế hoạch. Trong quý I, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao tổ chức tập huấn cho các vận động viên tham gia thi đấu: Lặn bể 25m quốc gia; vô địch Karate phía Bắc tại Hải Dương; Bóng chuyền Cúp Hoa Lư - Bình Điền (kết quả xếp thứ 4); giải Bóng chuyền Vô địch quốc gia Cúp Hóa chất Đức Giang giai đoạn 1; giải Vô địch các câu lạc bộ JuJitsu quốc gia; Việt dã Báo Tiền Phong; Wushu vô địch quốc gia; giải Vô địch các câu lạc bộ Vật cổ điển, Vật tự do quốc gia.
Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội khoẻ Phù Đổng tỉnh Thái Bình lần thứ XI năm 2024; tổ chức thành công giải Bóng đá Nhi đồng - Hội khoẻ Phù đổng tỉnh Thái Bình lần thứ XI; phối hợp với huyện Hưng Hà tổ chức giải giao hữu Bóng chuyền hơi và giải Cờ tướng tại lễ hội đền Trần Thái Bình. Tổ chức các hoạt động kỷ niệm Ngày truyền thống Ngành Thể thao Việt Nam 27/3; phối hợp giúp các ngành, các đơn vị huyện, thành phố tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày chạy Olympic vì sức khoẻ toàn dân năm 2024, ngày Thể thao Việt Nam.
Tình hình an toàn giao thông
Theo báo cáo của Công an tỉnh Thái Bình, từ ngày 15/2/2024 đến ngày 14/3/2024 trên địa bàn tỉnh xảy ra 27 vụ tai nạn giao thông, làm 11 người chết và 18 người bị thương. Tính chung 03 tháng đầu năm toàn tỉnh xảy ra 112 vụ tai nạn giao thông, làm 54 người chết và 69 người bị thương.
Tình hình cháy nổ
Theo Báo cáo từ Phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và Cứu nạn cứu hộ, từ ngày 15/02/2024 đến ngày 15/3/2024, trên địa bàn tỉnh Thái Bình không xảy ra cháy, nổ./.

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây