TÌNH HÌNH KINH TẾ
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)
Sáu tháng đầu năm 2022, GRDP trên địa bàn tỉnh Thái Bình (giá so sánh 2010) dự kiến đạt 29.768 tỷ đồng, tăng 9,49% so với cùng kỳ năm 2021. Khu vực Nông lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 6.773 tỷ đồng, tăng 2,67% so với cùng kỳ, đóng góp 0,65 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Khu vực Công nghiệp - Xây dựng ước đạt 12.466 tỷ đồng, tăng 13,84% so với cùng kỳ, đóng góp 5,58 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng; trong đó: ngành công nghiệp tăng 16,63% (đóng góp 4,69 điểm phần trăm), ngành xây dựng tăng 7,35%. Khu vực Dịch vụ ước đạt 8.720 tỷ đồng, tăng 7,95% so với cùng kỳ, đóng góp 2,36 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; thuế sản phẩm đóng góp 0,9 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
Cơ cấu GRDP tỉnh Thái Bình ước 6 tháng năm 2022 (theo giá hiện hành): khu vực Nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 21,9%; khu vực Công nghiệp - Xây dựng chiếm 43,1%; khu vực Dịch vụ chiếm 29,2%; thuế sản phẩm chiếm 5,8%.
Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Sáu tháng đầu năm 2022, tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh diễn ra trong điều kiện tương đối thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển. Chăn nuôi gia súc, gia cầm ổn định, dịch bệnh được kiểm soát; việc tái đàn lợn đang trên đà phục hồi nhưng gặp khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi tăng cao. Thủy sản duy trì mức tăng về sản lượng nuôi trồng và khai thác, mặc dù khai thác thủy sản chịu ảnh hưởng do giá nhiên liệu tăng cao.
Nông nghiệp
Trồng trọt
Cây hàng năm
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông Xuân 2022 đạt 126.933 ha, giảm 0,5% so với vụ Đông Xuân 2021; trong đó: diện tích gieo trồng vụ Đông đạt 36.705 ha, tăng 0,97% so với vụ Đông năm trước; diện tích gieo trồng vụ Xuân đạt 90.228 ha, giảm 1,04% so với vụ Xuân 2021.
Sản xuất lúa Xuân: Thời vụ gieo cấy lúa Xuân trùng với Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, cùng với ảnh hưởng của thời tiết rét đậm rét hại kéo dài (từ cuối tháng 01 đến đầu tháng 02 năm 2022, đặc biệt đợt rét hại, kèm theo mưa rào từ ngày 19-22/2/2022) đã làm ảnh hưởng đến tiến độ gieo cấy và một số diện tích lúa Xuân mới gieo cấy, nhìn chung thời vụ gieo cấy cơ bản đáp ứng theo Đề án sản xuất vụ của tỉnh: Trà sớm gồm các giống VN10; Xi23 cấy tập trung trong tháng 01 năm 2022 tập trung chủ yếu ở các huyện Đông Hưng và Hưng Hà, lúa đại trà gieo cấy từ đầu tháng 02 năm 2022 đến 15/2 các giống được gieo cấy chủ yếu là BC15, TBR 225, Đài thơm 8, BT7, Nếp các loại, lúa lai... và các giống khác; trà muộn gieo cấy sau 25/02/2022, toàn tỉnh kết thúc gieo cấy trước ngày 08/3/2022.
Phương thức gieo cấy tiếp tục được đổi mới theo hướng hiện đại, giảm diện tích gieo cấy thủ công (diện tích cấy bằng máy là 12.399 ha, tăng 1,5 lần so với vụ Xuân 2021, các huyện có diện tích cấy máy nhiều là Đông Hưng 4.000 ha, Kiến Xương 2.920 ha, Quỳnh Phụ 2.450 ha…)
Tổng diện tích gieo trồng lúa vụ Xuân đạt 75.621 ha, giảm 911 ha (-1,2%) so với vụ Xuân 2021 do vụ Xuân năm nay diện tích bỏ hoang ít, diện tích gieo trồng của một số doanh nghiệp tăng. Diện tích lúa dài ngày là 3.061 ha, chiếm 4,05%, các giống lúa ngắn ngày có diện tích 72.488 ha, chiếm 95,95% tổng diện tích lúa xuân. Giống lúa thuần có năng suất cao chiếm 61,7% gồm các giống lúa lai, Q5, BC 15, TBR 225... Các giống lúa có chất lượng gạo ngon (kể cả giống nếp dài ngày) có diện tích 28.967 ha, chiếm 38,3% tổng diện tích lúa Xuân.
Theo tiến độ sản xuất nông nghiệp của Sở NN&PTNT tính đến ngày 16/6/2021 tổng diện tích lúa Xuân đã thu hoạch là 27.750 ha, chiếm 36,7% tổng diện tích lúa Xuân đã cấy.
Để bảo đảm năng suất, chất lượng của lúa Xuân trong điều kiện thời tiết dự báo diễn biến phức tạp, đồng thời chủ động sản xuất cho vụ mùa trong khung thời vụ tốt nhất, ngành nông nghiệp khuyến cáo các địa phương chỉ đạo nông dân tập trung mọi lực lượng, phương tiện để thu hoạch nhanh, gọn diện tích lúa xuân đến kỳ thu hoạch theo phương châm “xanh nhà hơn già đồng” để tránh những thiệt hại do thời tiết bất thuận xảy ra. Thu hoạch đến đâu làm đất đến đó, tập trung ưu tiên làm đất, cấy lúa trà sớm để bảo đảm khung thời vụ để bố trí vùng sản xuất cây vụ đông ưa ấm; hướng dẫn nông dân vệ sinh đồng ruộng để hạn chế nguồn sinh vật hại phát sinh sang lúa mùa; làm đất kỹ, tăng cường áp dụng các tiến bộ khoa học trong nông nghiệp, đặc biệt sử dụng các chế phẩm sinh học, vôi bột để xử lý rơm rạ, hạn chế nguồn sinh vật hại và tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Lúa vụ Xuân ước tính năng suất đạt 70,84 tạ/ha, giảm 0,17 tạ/ha (-0,14%), sản lượng sơ bộ đạt 535,7 nghìn tấn, giảm 7,8 nghìn tấn (-1,43%) so với cùng kỳ.
Sản xuất rau màu: Vụ Đông Xuân năm 2021 các cây trồng hàng năm đều phát triển thuận lợi. Tổng diện tích gieo trồng các loại cây màu vụ Đông Xuân 2021 đạt 47.312 ha, năng suất sơ bộ ước đạt tương đương với năm trước. Cụ thể là: Cây ngô năng suất sơ bộ đạt 57,97 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha (+0,2%), sản lượng đạt 39.917 tấn, giảm 7.597 tấn (-16%) so với vụ Đông Xuân năm 2020 do diện tích gieo trồng giảm 1.326 ha (-16,1%) so với cùng kỳ. Cây khoai lang năng suất đạt 122,82 tạ/ha, giảm 0,24 tạ/ha (-0,2%), do diện tích gieo trồng giảm nên sản lượng đạt 29.740 tấn, giảm 4.774 tấn (-13,8%) so với vụ Đông Xuân năm 2021. Cây đậu tương năng suất đạt 18,02 tạ/ha, giảm 0,01 tạ/ha (-0,01%) do diện tích giảm nên sản lượng đạt 1.315 tấn, giảm 210 tấn (-13,8%) so với vụ Đông Xuân năm 2021.
Theo tiến độ sản xuất của Sở NN & PTNT đến ngày 16/6/2022, tổng diện tích cây màu hè đã trồng 10.980 ha, đạt 99,8% kế hoạch đề ra; diện tích cây màu hè đã thu hoạch 3.720 ha chiếm 33,8% diện tích cây màu hè đã trồng. Diện tích mạ đã gieo 940 ha tập trung tại huyện Hưng Hà, Đông Hưng và Vũ Thư.
Cây lâu năm
Tổng diện tích cây lâu năm hiện có ước đạt 8.167 ha, tăng 0,12% so với cùng kỳ; trong đó diện tích nhóm các loại cây ăn quả đạt 5.819 ha chiếm 71,3% trong tổng diện tích của toàn tỉnh, tăng 0,1% so cùng kỳ năm 2021, diện tích tăng tập trung ở một số loại cây trồng như: chuối, nhãn, mít… Tình hình thời tiết năm nay thuận lợi cho các loại cây ăn quả phát triển tốt, sản xuất cây lâu năm khác tiếp tục phát triển và tăng trưởng so cùng kỳ.
Chăn nuôi
Trong 6 tháng đầu năm tình hình chăn nuôi ít bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Chăn nuôi theo hình thức trang trại, ứng dụng công nghệ được nhân rộng. Chuyển đổi phương thức chăn nuôi theo hướng công nghiệp hiện đại; quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, chăn nuôi VietGAHP được tuyên truyền, nhân rộng áp dụng rộng rãi; khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi, thú y được chuyển giao, ứng dụng đem lại giá trị, hiệu quả kinh tế cao hơn,… Tổ chức sản xuất chăn nuôi theo chuỗi liên kết tiếp tục được hình thành và phát triển. Toàn tỉnh hiện nay có 01 hiệp hội, 05 HTX, 09 tổ hợp tác chăn nuôi và vẫn duy trì các chuỗi liên kết dọc với 04 doanh nghiệp. Theo thông tư số 20/2019/TT-BNNPTNT ngày 22/11/2019 của Bộ Nông nghiệp và PTNT đến hết quý I/2022, toàn tỉnh có khoảng 21 tổ chức, cá nhân sản xuất con giống vật nuôi (03 cơ sở sản xuất con giống lợn và 18 cơ sở sản xuất con giống gia cầm); 04 cơ sở sản xuất tinh lợn và 59 cơ sở ấp trứng gia cầm.
Chăn nuôi gia súc: Chăn nuôi trâu, bò đã có sự biến động tăng do các địa phương đang quyết liệt thực hiện đề án phát triển đàn trâu, bò thương phẩm theo chuỗi liên kết giai đoạn 2019 - 2025 và những năm tiếp theo nhằm chuyển đổi cơ cấu ngành chăn nuôi đưa trâu, bò trở thành một trong những đối tượng vật nuôi chủ lực trên địa bàn tỉnh, tỷ lệ giống bò lại Sind chiếm trên 90% tổng đàn bò và hiện đang tiếp tục phát triển đàn bò giống lai nhóm Zebu bằng công tác thụ tinh nhân tạo. Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 5.148 tấn, tăng 0,7% so với cùng kỳ.
Chăn nuôi lợn: Hiện tại, đàn lợn đang được khôi phục sau dịch tả lợn Châu Phi, tuy nhiên việc tái đàn tại các địa phương trong tỉnh vẫn còn chậm so với kỳ vọng bởi sau một thời gian dài bị ảnh hưởng bởi bệnh dịch tả lợn châu Phi. Nhiều hộ chăn nuôi nhỏ chưa thể tái đàn ngay do phải đối mặt với nhiều khó khăn về giá cả thị trường biến động bất thường, giá thức ăn chăn nuôi tăng cao. Ước tính 6 tháng đầu năm 2022 sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 76 nghìn tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2021.
Chăn nuôi gia cầm: Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 28,2 nghìn tấn, tăng 4% so với cùng kỳ; trong đó sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng đạt 21,4 nghìn tấn, tăng 5%; sản lượng trứng gia cầm đạt 168,6 triệu quả, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước.
Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp 6 tháng đầu năm 2022 tập trung vào việc chăm sóc, bảo vệ rừng và tiếp tục chỉ đạo các xã ven biển tăng cường công tác quản lý, chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện trồng bổ sung rừng ngập mặn ven biển đạt kết quả tốt.
Sáu tháng đầu năm 2022 đã trồng mới được 7 ha rừng, đạt 68,3% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác 6 tháng năm 2022 ước đạt 1.135 m3, tăng 0,7%; sản lượng củi khai thác ước đạt 4.149 ste, tăng 0,3% so với cùng kỳ.
Thuỷ sản
Sản xuất thủy sản tiếp tục phát huy thế mạnh về khai thác và nuôi trồng thủy sản ven biển, duy trì các mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao, tích cực khắc phục cảnh báo của Ủy ban Châu Âu (EC) về khai thác thủy sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU). Tổng sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 127,6 nghìn tấn, tăng 3% so với cùng kỳ.
Khai thác: Sáu tháng đầu năm 2022, thời tiết tương đối ổn định cho hoạt động khai thác biển. Tuy có một số ngày bị ảnh hưởng của những trận mưa lớn biển động một số tàu thuyền không thể ra khơi đánh bắt song cũng không ảnh hưởng nhiều đến sản lượng khai thác chung của toàn tỉnh. Giá cả xăng dầu tăng mạnh cũng gây ảnh hưởng đến hoạt động khai thác thủy sản. Sản lượng khai thác 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 52,3 nghìn tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 32,7 nghìn tấn, tăng 2,3%; tôm đạt 0,8 nghìn tấn, tăng 2%; thủy sản khác đạt 18,8 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ.
Nuôi trồng: Tình hình nuôi trồng thủy sản lồng bè đã và đang phát triển ổn định tại các địa phương, đối tượng chủ yếu nuôi là cá lăng và cá diêu hồng; … và hầu trên bè ở cửa sông. Toàn tỉnh hiện có 520 bè nuôi hàu, 633 lồng nuôi cá với thể tích 69.318 m3. Sản lượng nuôi lồng bè 6 tháng ước đạt 1,3 nghìn tấn, tăng 2,9% so với cùng kỳ.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản 6 tháng đầu năm ước đạt 75,3 nghìn tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 19,1 nghìn tấn, tăng 1,8%; tôm đạt 1,2 nghìn tấn, tăng 2,2%; thủy sản khác đạt 55 nghìn tấn, tăng 4,2% so với cùng kỳ.
Sản xuất công nghiệp
Theo khảo sát thực tế xu hướng Các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý II/2022: tính cạnh tranh của hàng trong nước cao chiếm tới 48,4%, tiếp đến nhu cầu thị trường trong nước thấp chiếm 47,8%, nhu cầu thị trường quốc tế thấp là 40,9%, thiếu nguyên nhiên vật liệu là 33,9%, khó khăn về tài chính là 28,9%, không tuyển được lao động theo yêu cầu là 37,1%, thiết bị công nghệ lạc hậu là 18,2%.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tỉnh Thái Bình tháng 6/2022 tăng 6,9% so tháng 5/2022, tăng 19,4% so cùng kỳ năm trước. Trong đó so với tháng trước: ngành Khai khoáng tăng 1,2%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,5%, Sản xuất và phân phối điện tăng 47,3%, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,5%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2022 tăng 15,8% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó Khai khoáng tăng 63%, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 19,1%, sản xuất và phân phối điện tăng 1,6%, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải nước thải giảm 2,3%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 6 tháng đầu năm 2022
Một số ngành có chỉ số sản xuất sản phẩm 6 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm 2021: Khí tự nhiên dạng khí tăng 16,3%; tôm, thủy hải sản đông lạnh tăng 12,1-30,7%; thức ăn cho gia súc tăng 24,9%; bia lon tăng 12,3%; Khăn mặt, khăn tắm dùng trong phòng vệ sinh và nhà bếp tăng 33,9%; sản phẩm quần áo các loại tăng từ 17,2-39,8%; sản phẩm giầy dép các loại tăng 15,8%; cửa sổ, cửa ra vào bằng gỗ tăng 26,5%; Sản phẩm Nitorat Amoni tăng 24,9%; dược phẩm khác chưa được phân vào đâu tăng 25,2%; sản phẩm tai nghe khác tăng 37,8%; cần gạt nước, túi khí an toàn tăng từ 23,4-54,3%; Sản phẩm đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người tăng 77,9%; đồ chơi và trò chơi chưa được phân vào đâu tăng 33,2%... Tuy nhiên vẫn còn một số ngành có chỉ số sản xuất sản phẩm tăng nhẹ hoặc giảm như: bộ sản phẩm tổ hợp tăng 0,6%; điện sản xuất tăng 1,3%; điện thương phẩm tăng 1,9%. Sản phẩm bia hơi, bia chai giảm chỉ đạt 61,2 -77,1%; chiếu cói quy chuẩn đạt 94,4%; sản phẩm balo đạt 68,5%... Nguyên nhân do nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, giá xăng dầu tăng cao, chi phí vận chuyển tăng ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp;…
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm 2022 đạt 98,7% so cùng kỳ năm 2021; Tính đến tháng 6/2022, chỉ số tồn kho ngành chế biến chế tạo tăng 10,1% so tháng 5/2022, so cùng kỳ đạt 90,6%.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm tháng 6/2022 tăng 2,1% so tháng trước và tăng 4,4% so với cùng kỳ.
Kết quả điều tra khảo sát xu hướng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chế biến, chế tạo quý II/2022 so với quý I/2022 cho thấy: Xu hướng tỷ lệ doanh nghiệp có tình trạng sản xuất so với quý I/2022: Tốt lên chiếm 51,6%; giữ nguyên chiếm 34,6% và khó khăn hơn chiếm 13,8%. Dự báo xu hướng sản xuất kinh doanh quý III/2022 so với quý II/2022: Tốt lên chiếm 54,1%; giữ nguyên chiếm 41,5%; khó khăn hơn chiếm 4,4%.
Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước tháng 6/2022 ước đạt 572 tỷ đồng, tăng 11,2% so tháng trước và tăng 37,7% so cùng kỳ năm 2021. Vốn Ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 275 tỷ đồng, tăng 15,9 % so với cùng kỳ; trong đó vốn cân đối ngân sách tỉnh ước đạt 178 tỷ đồng, tăng 8,1% so cùng kỳ; vốn ngân sách huyện ước đạt 212 tỷ đồng, tăng 77,7% so cùng kỳ; vốn ngân sách cấp xã ước đạt 85 tỷ đồng, tăng 44% so cùng kỳ.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm ước đạt 2.531 tỷ đồng, tăng 25,7% so cùng kỳ. Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước đạt 1.281 tỷ đồng, tăng 20,3%; trong đó vốn cân đối ngân sách tỉnh ước đạt 815 tỷ đồng, tăng 8,3%; vốn ngân sách Nhà nước huyện ước đạt 856 tỷ đồng, tăng 36,4%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã ước đạt 394 tỷ đồng, tăng 22,9% so cùng kỳ.
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn ước 6 tháng đầu năm 2022 đạt 22.639 tỷ đồng, tăng 7,8% so cùng kỳ. Theo loại hình: Vốn đầu tư khu vực nhà nước ước đạt 4.519 tỷ đồng, giảm 31,6%; vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước ước đạt 16.470 tỷ đồng, tăng 27,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 1.650 tỷ đồng, tăng 9,2% so cùng kỳ.
Một số dự án trọng điểm đang triển khai trong 6 tháng đầu năm 2022
Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN Liên Hà Thái, tổng vốn đầu tư 3.885 tỷ đồng; dự kiến 6 tháng đạt 383 tỷ đồng;
Dự án đầu tư nhà máy sản xuất tấm trần thạch cao MIKADO GYPSUM của Công ty CP Vinafrit, vốn đầu tư gần 345 tỷ đồng, dự kiến 6 tháng đạt 60 tỷ đồng;
Dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất đồ gỗ cao cấp của Công ty CP đầu tư thương mại quốc tế Minh Vượng, vốn đầu tư 169 tỷ đồng, dự kiến 6 tháng đạt 85 tỷ đồng;
Dự án sản xuất tấm Modun pin năng lượng mặt trời của Công ty China New Energy Industry Group Limíted tại KCN Gia Lễ, vốn đầu tư 180 tỷ đồng, dự kiến 6 tháng đạt 55 tỷ đồng;
Dự án nhà máy Lotes Thái Thụy Việt Nam tại KCN Liên Hà Thái, tổng vốn đầu tư 2.760 tỷ đồng, dự kiến 6 tháng đạt 350 tỷ đồng;
Dự án nhà máy Lotes Thái Thụy Việt Nam tại KCN Phúc Khánh, vốn đầu tư 398 tỷ đồng, dự kiến 6 tháng đạt 85 tỷ đồng;
Dự án nâng cấp, cải tạo đường 217 (ĐT.396B) từ cầu Hiệp đến Quốc lộ 39, giai đoạn 2: Từ cầu Quốc lộ 10 đến Quốc lộ 39, dự kiến 6 tháng đạt 45tỷ đồng;
Dự án ĐTXD tuyến đường ĐT.455 (đường 216 cũ) đoạn từ đường Thái Bình - Hà Nam đến đường vào UBND xã Tây Đô, huyện Hưng Hà, vốn đầu tư hơn 85 tỷ, dự kiến 6 tháng đạt 20 tỷ;
Dự án nâng cấp, cải tạo tuyến đường cứu hộ, cứu nạn ĐH.91 từ xã Thái Giang đi xã Thái Dương (đấu nối với QL.39), huyện Thái Thụy - giai đoạn 2, dự kiến 6 tháng ước đạt 16 tỷ đồng;
Dự án Cải tạo nâng cấp đường ĐT.452 (đường 224 cũ), GĐ1: Đoạn từ ngã tư La đến đường nối hai tỉnh Thái Bình – Hà Nam, vốn đầu tư 101 tỷ, dự kiến 6 tháng ước đạt 12 tỷ;
Dự án ĐTXD công trình tuyến đường từ thành phố Thái Bình qua cầu Tịnh Xuyên đến huyện Hưng Hà, vốn đầu tư 6 tháng ước đạt 50 tỷ đồng:
Dự án Cải tạo, nâng cấp đường tránh trú bão, cứu hộ cứu nạn, phát triển kinh tế biển và đảm bảo ANQP ven biển phía Nam tỉnh Thái Bình (đường 221A), Dự kiến 6 tháng ước đạt 150 tỷ đồng;
Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường ĐT.454 (đường 223) từ Thành phố Thái Bình đến cầu Sa Cao, vốn đầu tư gần 560 tỷ đồng, 6 tháng ước đạt 42 tỷ đồng;
Dự án Tuyến đường ĐT.455 (đường 216 cũ), đoạn từ Quốc lộ 10 đến đường ĐT.456, GĐ1: Đoạn từ Quốc lộ 10 đến xã An Dục, huyện Quỳnh Phụ, vốn đầu dự kiến 6 tháng ước đạt 19 tỷ đồng.
Tình hình đăng ký kinh doanh: Tính đến đầu tháng 6 năm 2022 đã cấp 473 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, 28 chi nhánh, 23 văn phòng đại diện với số vốn đăng ký đạt 5.347 tỷ đồng. Xác nhận Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 279 doanh nghiệp; doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là 26 doanh nghiệp, trong đó thu hồi Giấy chứng nhận dăng ký kinh doanh do doanh nghiêp giải thể là 26 doanh nghiệp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới là 04 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 44,8 triệu USD, đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo do các nhà đầu tư từ Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Thương mại, dịch vụ và giá cả
Tháng 6/2022, tình hình thương mại dịch vụ trong tỉnh diễn ra khá sôi động khi mọi hoạt động trở lại trạng thái bình thường. Sáu tháng đầu năm giá xăng dầu liên tục tăng cao (hiện trong tháng 6 tăng 50,7% so cùng kỳ) dẫn đến giá cước tăng ở tất cả các lĩnh vực vận tải, giá nguyên liệu đầu vào tăng tăng đẩy giá thành sản phẩm tăng như thức ăn chăn nuôi, dầu ăn, sản phẩm chăn nuôi,… Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 năm 2022 tăng 20,3% so với cùng kỳ; vận chuyển hành khách tăng 49,7%, vận chuyển hàng hóa tăng 40,9% so với cùng kỳ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6/2022 ước đạt 4.747 tỷ đồng, tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 20,3% so với cùng kỳ. Theo ngành kinh tế, doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 6/2022 ước đạt 4.182 tỷ đồng, giảm 1,3% so với tháng trước và tăng 18,8% so với cùng kỳ. Trong tháng chỉ có nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm giảm 18,1%, các nhóm hàng còn lại đều tăng so với cùng kỳ như: Nhóm nhiên liệu khác tăng 51,2%; nhóm ô tô con tăng 46,9%; nhóm dịch vụ sửa chữa ô tô, xe máy tăng 41,1%; nhóm xăng dầu các loại tăng 39,4%; nhóm hàng may mặc tăng 31,8%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 24%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 11,5%;… Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 12 tỷ đồng, tăng 3,1% so với tháng trước và tăng 28,8% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 285 tỷ đồng, giảm 2,7% so với tháng trước và tăng 36,5% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 266 tỷ đồng, giảm 3,6% so với tháng trước và tăng 27,2% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lữ hành giảm 13,2% so với tháng trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 28.673 tỷ đồng, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước. Theo ngành kinh tế, doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 25.257 tỷ đồng, tăng 16,4% so với cùng kỳ. Riêng nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm giảm 6,2%; các nhóm hàng còn lại đều tăng so với cùng kỳ như: Nhóm ô tô con tăng 44,8%; nhóm xăng dầu các loại tăng 33,3%; nhóm nhiên liệu khác tăng 27,2%; nhóm hàng may mặc tăng 19,6%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 18,8%; nhóm phương tiện đi lại tăng 18,2%;…
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 1.786 tỷ đồng, tăng 31% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 66 tỷ đồng, tăng 10,3%; dịch vụ ăn uống ước đạt 1.713 tỷ đồng, tăng 31,5%; dịch vụ lữ hành ước đạt 7 tỷ đồng, tăng 6,8 lần. Doanh thu dịch vụ tăng do dịch bệnh được kiểm soát tốt, tỷ lệ tiêm văc-xin cao đã tạo tâm lý yên tâm cho người dân khi sử dụng các dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành.
Doanh thu dịch vụ khác 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 1.630 tỷ đồng, tăng 20,8% so với cùng kỳ, do dịch bệnh được kiểm soát nên nhiều dịch vụ hoạt động trở lại bình thường như: cho thuê phông bạt, dạy thêm, vui chơi, giải trí, karaoke, internet, spa, làm đẹp,… Cụ thể: Bất động sản tăng 4,1%; dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 46,7%; dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 13,8%; dịch vụ y tế tăng 25,3%; dịch vụ nghệ thuật và vui chơi giải trí tăng 27,5%; dịch vụ sửa chữa tăng 12,5%; hoạt động phục vụ cá nhân khác tăng 0,2%.
Giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2022 tăng 0,43% so với tháng trước; tăng 1,97% so với cùng tháng năm trước và tăng 3,05% so với tháng 12 năm trước. Trong tháng, giá xăng dầu liên tục được điều chỉnh 3 đợt vào các ngày 02, 14, 22/5 (xăng A95 tăng 2.250 đồng/lít; xăng E5 tăng 1.700 đồng/lít; dầu diezen 0,05 tăng 4.460 đồng/lít; dầu hỏa tăng 4.380 đồng/lít); giá xăng lệch 1,5% so vùng 1; giá dầu diezen 0,05 lệch 190 đồng/lít so vùng 1, đây là áp dụng riêng của xăng dầu tỉnh Thái Bình. Do giá xăng dầu tăng, giá nguyên liệu sản xuất nhiều mặt hàng tiêu dùng tiếp tục có xu hướng tăng, giá lợn hơi, giá sản phẩm chăn nuôi gia cầm tăng, giá bán lẻ hầu hết các mặt hàng tiêu dùng đều tăng do tác động từ giá cước vận chuyển như: đồ uống, vật liệu xây dựng,…
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 1,15% so với cùng kỳ năm trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 3 nhóm hàng giảm giá: chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 3,60%; chỉ số giá nhóm văn hóa giải trí và du lịch giảm 0,17%; chỉ số giá nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,05%. Còn lại 7 nhóm có chỉ số tăng: chỉ số giá nhóm giao thông tăng 20,45% do giá xăng dầu tăng; chỉ số giá nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,89%; chỉ số giá nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,10%; chỉ số giá nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,39%; chỉ số giá nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,34%; chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 0,23%; chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,19%.
Xuất nhập khẩu hàng hoá
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 6/2022 ước đạt 335 triệu USD, giảm 19,7% so với tháng trước và giảm 4,7% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 2.192 triệu USD, tăng 28,1% so với cùng kỳ (xuất khẩu tăng 25,2%; nhập khẩu tăng 31%).
Xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu tháng 6/2022 ước đạt 188 triệu USD, giảm 6,9% so với tháng trước và giảm 1,5% so với cùng kỳ. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 113 triệu USD, tương đương tháng trước và tăng 25,4% so với cùng kỳ; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 75 triệu USD, giảm 15,6% so với tháng trước và giảm 25,7% so với cùng kỳ. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu giảm so với tháng trước như: Xơ, sợi dệt các loại giảm 12,8%; sản phẩm từ sắt thép giảm 11,9%; giấy và các sản phẩm từ giấy giảm 6,7%; hàng hóa khác giảm 8,5%;...
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1.080 triệu USD, tăng 25,2% so với cùng kỳ; trong đó: Kinh tế tư nhân đạt 629 triệu USD, tăng 42,8%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 451 triệu USD, tăng 6,7%. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn đều tăng so với cùng kỳ như: Hàng dệt may đạt 596,8 triệu USD (chiếm 55,2%), tăng 36,3%; hàng hóa khác đạt 184,6 triệu USD (chiếm 17,1%), tăng 43,4%; xơ, sợi dệt các loại đạt 83 triệu USD, tăng 16%; sản phẩm từ sắt thép đạt 13,4 triệu USD, tăng 83,5%; sản phẩm gốm sứ đạt 10,3 triệu USD, tăng 23,8%;... Bên cạnh đó một số mặt hàng giảm: sắt thép đạt 12,6 triệu USD, giảm 85,5%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 0,4 triệu USD, giảm 46,5%; sản phẩm mây, tre, cói và thảm đạt 2,2 triệu USD, giảm 39,3%.
Về thị trường xuất khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2022, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của tỉnh với kim ngạch ước đạt 266 triệu USD, chiếm tỷ trọng 24,6%; tiếp đến là Hàn Quốc 149 triệu USD, chiếm 13,8%; Nhật Bản 130 triệu USD, chiếm 12%; Hồng Kông 103 triệu USD, chiếm 9,5%.
Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 6/2022 ước đạt 147 triệu USD, giảm 31,8% so với tháng trước chủ yếu do nhập khẩu xăng dầu giảm sâu (-54,9%) và giảm 8,4% so với cùng kỳ do ảnh hưởng lớn từ việc không nhập khẩu phế liệu sắt thép. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 101 triệu USD, giảm 38,4% so với tháng trước và tăng 33,2% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 46 triệu USD, giảm 11,3% so với tháng trước và giảm 45,3% so với cùng kỳ. Một số mặt hàng có giá trị tăng so với tháng trước như: Hàng thủy sản tăng 9,7%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 6,1%; chất dẻo nguyên liệu tăng 0,5%. Các mặt hàng còn lại đều giảm so tháng trước như: Xăng dầu các loại giảm 54,9%; bông các loại giảm 22,8%; sắt thép các loại giảm 21,6%; máy móc, thiết bị, phụ tùng khác giảm 19,7%; xơ, sợi dệt các loại giảm 19,1%; vải các loại giảm 15,4%;...
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 1.112 triệu USD, tăng 31% so với cùng kỳ; trong đó: kinh tế tư nhân đạt 819 triệu USD, tăng 78,9% chủ yếu do nhập khẩu xăng dầu có tốc độ tăng cao (+1,2 lần); kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 293 triệu USD, giảm 25,1% so với cùng kỳ do nhập khẩu phế liệu sắt thép giảm sâu (-96%). Hầu hết các mặt hàng chủ lực có giá trị nhập khẩu lớn đều tăng cao so với cùng kỳ như: Xăng dầu các loại đạt 411 triệu USD (chiếm 36,9%), tăng 1,2 lần; vải các loại đạt 294 triệu USD (chiếm 26,5%), tăng 33,7%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày đạt 184 triệu USD (chiếm 16,6%), tăng 31,7%; hàng hóa khác đạt 85 triệu USD (chiếm 7,6%), tăng 13%.
Hoạt động vận tải
Hoạt động vận tải đang từng bước được phục hồi, bên cạnh đó việc tăng giá cước ở tất cả các ngành vận tải do giá xăng dầu tăng cao đã tác động tăng doanh thu ngành vận tải. Tổng doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi, bưu chính và chuyển phát tháng 6/2022 ước đạt 597 tỷ đồng tăng 2,5% so với tháng trước và tăng 33,5% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 tổng doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi, bưu chính và chuyển phát ước đạt 3.475 tỷ đồng, tăng 17,8% so với cùng kỳ.
Vận tải hành khách
Doanh thu vận tải hành khách tháng 6/2022 ước đạt 171 tỷ đồng, tăng 2,5% so với tháng trước và tăng 33,5% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 2,3 triệu người, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 49,7% so với cùng kỳ; số lượt khách luân chuyển ước đạt 261 triệu người.km, tăng 3% so với tháng trước và tăng 40,9% so với cùng kỳ.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 946 tỷ đồng, tăng 18,8% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 12,7 triệu người, tăng 17,2%; số lượt khách luân chuyển ước đạt 1.429 triệu người.km, tăng 18,6% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hoá
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 6/2022 ước đạt 419 tỷ đồng, tăng 2,5% so với tháng trước và tăng 27,7% so với cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 2,5 triệu tấn, tăng 2,7% so với tháng trước và tăng 26,9% so với cùng kỳ. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 910 triệu tấn.km, tăng 3% so với tháng trước và tăng 18% so với cùng kỳ.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, doanh thu vận tải hàng hoá ước đạt 2.489 tỷ đồng, tăng 17,6% so với cùng kỳ. Trong đó: vận tải hàng hóa đường bộ ước đạt 1.437 tỷ đồng, tăng 21,7%; vận tải hàng hóa đường ven biển và viễn dương đạt 896 tỷ đồng, tăng 14,2%; vận tải hàng hóa đường thủy nội địa đạt 156 tỷ đồng, tăng 3,4%. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 15 triệu tấn, tăng 15,7%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 5.457 triệu tấn.km, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước.
Dịch vụ hỗ trợ vận tải, bưu chính chuyển phát
Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 6/2022 ước đạt 6,4 tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 27,6% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 36,3tỷ đồng, tăng 8,5% so với cùng kỳ.
Doanh thu bưu chính chuyển phát tháng 6/2022 ước đạt 0,6 tỷ đồng, tăng 6,2% so với tháng trước và tăng 24,1% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 3,0 tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ.
Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
Tổng thu ngân sách Nhà nước ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2022 đạt 14.370 tỷ đồng, đạt 79,8% so với dự toán, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa ước đạt 4.825 tỷ đồng, tăng 5,7%; thu thuế xuất nhập khẩu ước đạt 1.950 tỷ đồng, tăng 131,9%.
Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2022 đạt 6.956 tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ; trong đó: chi phát triển kinh tế ước đạt 3.120 tỷ đồng, tăng 13,2%; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt 3.710 tỷ đồng, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước.
Sáu tháng đầu năm 2022, Ngân hàng Thái Bình đã triển khai đầy đủ, kip thời chủ trương, chính sách, các văn bản mới của Đảng, Nhà nước, của Ngành và địa phương liên quan đến tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh. Dự kiến đến 30/6/2022, tổng nguồn vốn huy động ước đạt 101.030 tỷ đồng, tăng 7,2% so với thời điểm 31/12/2021; tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng ước đạt 82.680 tỷ đồng, tăng 10% so với thời điểm 31/12/2021; tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát ở mức thấp chiếm 0,71% tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng trên địa bàn.
Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Thái Bình, 6 tháng đầu năm 2022 ước thu 2.414 tỷ đồng. Phát triển mới 250 đơn vị với 2.192 lao động tham gia BHXH, BHYT, BHTN; quản lý 222.038 người tham gia BHXH bắt buộc (tăng 21.739 người so với năm 2021); 46.532 người tham gia BHXH tự nguyện (tăng 13.415 người so với năm 2021); 211.132 người tham gia BHTN (tăng 20.246 người so với năm 2021); có 1.628.566 người tham gia BHYT (tăng 9.867 người so với năm 2021).
TÌNH HÌNH VĂN HÓA XÃ HỘI
Lao động, việc làm
Thái Bình là tỉnh có mật độ dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia hoạt động kinh tế khá cao so với các tỉnh trong khu vực (trên 1.127,3 nghìn lao động). Cơ cấu lao động của tỉnh đang có sự chuyển dịch tích cực: Lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp - thủy sản theo xu hướng giảm, lao động làm việc trong các ngành phi nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng lên (năm 2021 lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp - thủy sản hiện chiếm khoảng 28,5%, công nghiệp - xây dựng chiếm 44,9%, dịch vụ - thương mại giảm còn khoảng 26,6%). Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quý II năm 2022 ước đạt 1.127,3 nghìn lao động, tăng 0,32% so với năm 2021, trong đó: lao động khu vực nông lâm nghiệp thủy sản ươc đạt 320,2 nghìn người; lao động khu vực công nghiệp và xây dựng ước đạt 506,2 nghìn người và khu vực dịch vụ là 300,9 nghìn người. Tỷ lệ thất nghiệp trong quý II năm 2022 ước tính khoảng 1,61%.
Theo báo cáo Sở Lao động Thương binh và Xã hội, ước 6 tháng đầu năm 2022, toàn tỉnh có khoảng 18.990 lao động có việc làm tăng thêm (đạt 57,55% kế hoạch năm, bằng 119,4% so với cùng kỳ năm 2021), trong đó tạo việc làm tại địa phương cho 13.200 lao động, lao động đi làm việc ở tỉnh ngoài 4.070 lao động, lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 1.720 lao động. Hướng dẫn 21 doanh nghiệp xây dựng nội quy lao động; 16 doanh nghiệp thực hiện các quy định về chính sách tiền lương, tiền thưởng, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Phối hợp kiểm tra thông tin, nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài của 19 doanh nghiệp; trình Ủy ban nhân dân tỉnh chấp thuận nhu cầu sử dụng lao động đối với 113 lao động nước ngoài của 50 lượt doanh nghiệp, cơ sở; cấp giấy phép lao động cho 242 lao động nước ngoài (trong đó cấp mới 182 lao động, cấp lại 24 lao động, gia hạn 36 lao động). Thực hiện chính sách trợ cấp thất nghiệp cho 3.570 trường hợp.
Sáu tháng đầu năm 2022, đã có 10.505 người tham gia học nghề (đạt 29,09% kế hoạch năm, bằng 135% so với cùng kỳ năm 2021), trong đó trình độ cao đẳng nghề 635 người, trung cấp nghề 1.460 người, sơ cấp và đào tạo dưới 03 tháng 8.410 người.
Trợ cấp xã hội
Theo báo cáo Sở Lao động Thương binh và Xã hội, kết quả tổng rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025 theo Nghị định số 07/2021/NĐ-CP của Chính phủ, theo đó tổng số hộ nghèo toàn tỉnh là 15.739 hộ, tỷ lệ 2,40 %; tổng số hộ cận nghèo là 16.218 hộ, tỷ lệ 2,47 %.
Thực hiện chính sách đối với người nghèo, cận nghèo, cụ thể: Cấp 16.957 thẻ BHYT người nghèo, 26.886 thẻ BHYT người cận nghèo; hỗ trợ miễn học phí cho 1.536 học sinh nghèo, hỗ trợ giảm học phí cho 8.329 học sinh cận nghèo, hỗ trợ chi phí học tập cho 6.067 lượt học sinh nghèo, cận nghèo, học sinh khuyết tật; 716 trẻ em học mẫu giáo thuộc hộ nghèo được hỗ trợ tiền ăn trưa. Theo báo cáo của Ngân hàng chính sách xã hội đến 31/5/2022, đã có 518 hộ nghèo, 648 hộ cận nghèo, 5.502 hộ thoát nghèo được vay vốn tín dụng; 15.625 hộ nghèo được hỗ trợ tiền điện.
Dự kiến 6 tháng đầu năm 2022, toàn tỉnh chi trả trợ cấp xã hội cho hơn 112.000 đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng với tổng kinh phí chi trả trên 360 tỷ đồng; hỗ trợ chi phí mai táng cho trên 3.000 đối tượng, kinh phí hỗ trợ trên 21 tỷ đồng; 87 trường hợp được nhận hỗ trợ từ chương trình Cặp lá yêu thương; thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách đối với đối tượng bảo trợ xã hội. Sáu tháng đầu năm, đã triển khai kiểm tra và tự kiểm tra việc thực hiện chính sách giảm nghèo và chính sách trợ giúp xã hội tại các huyện, thành phố, các cơ sở trợ giúp xã hội trên địa bàn tỉnh, kết quả đã kiểm tra tại 09 xã, thị trấn, và kiểm tra thực tế đối với 821 đối tượng.
Công tác đối với người có công
Theo báo cáo Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Sở đã chỉ đạo triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách ưu đãi đối với người và gia đình có công với cách mạng. Hướng dẫn các địa phương thực hiện tặng quà của Chủ tịch nước, của tỉnh nhân dịp tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022. Triển khai tập huấn tới các địa phương Nghị định số 131/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Tham mưu UBND tỉnh phê duyệt phương án chi trả trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng qua hệ thống Bưu điện trên phạm vi toàn tỉnh. Tham mưu triển khai các hoạt động trọng tâm kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2022).
Tiếp tục thực hiện các ý kiến Kết luận của Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về giải quyết chế độ đối với người nhiễm chất độc hóa học trên địa bàn tỉnh. Chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết các thắc mắc, kiến nghị của công dân và hướng dẫn công dân bổ sung hồ sơ làm cơ sở thực hiện chính sách theo quy định. Sáu tháng đầu năm 2022, Sở đã thực hiện tiếp nhận 6.628 thủ tục hồ sơ người có công, đã giải quyết 6.238 thủ tục, còn lại đang trong thời hạn giải quyết; duyệt hơn 1.000 lượt thủ tục đề nghị trợ cấp ưu đãi học sinh sinh viên đợt 1; thực hiện rà soát trên 40.000 hồ sơ thờ cúng liệt sỹ.
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Tình hình dịch bệnh và công tác phòng chống dịch
Tình hình dịch, bệnh Covid-19
Kết quả thực hiện hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, theo báo cáo Sở Lao động Thương binh và Xã hội, đến nay, toàn tỉnh đã thực hiện hỗ trợ 216.800 người lao động và người dân của 2.985 đơn vị, doanh nghiệp được hưởng các chính sách hỗ trợ, với tổng số tiền gần 66 tỷ đồng theo Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ. Thực hiện hỗ trợ giảm đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp cho người sử dụng lao động của 2.628 đơn vị (tương ứng khoảng 166.997 lao động), với số tiền là trên 87,2 tỷ đồng; hỗ trợ bằng tiền mặt cho 186.462 người lao động (trong đó 170.721 người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp, 15.741 người lao động đã dừng tham gia bảo hiểm thất nghiệp), với số tiền trên 442 tỷ đồng theo Nghị quyết số 116/NQ-CP của Chính phủ. Việc thực hiện chi trả các chính sách hỗ trợ đảm bảo đúng quy định, đúng đối tượng, công khai, minh bạch, không xảy ra sai sót, tiêu cực.
Theo báo cáo Sở Y tế, từ ngày 01/01/2022 đến 16/6/2022, Số trường hợp mắc mới: 264.824 ca (cộng đồng: 138.242 ca, cách ly phong tỏa: 126.582 ca). Hoàn thành điều trị/ cách ly: 258.350 ca, chuyển viện trung ương điều trị: 30 ca. Tử vong: 70 ca. Công tác tiêm chủng vắc xin Covid-19: Tính đến ngày 16/6/2022, Thái Bình đã thực hiện 3.810.443 mũi tiêm.
Một số dịch bệnh truyền nhiễm khác: Bệnh tay- chân- miệng: Số trường hợp mắc 147; Bệnh sốt xuất huyết: Số trường hợp mắc 17; Thủy đậu: 201; Viêm gan: 69; Viêm não vi rút: 0; Cúm mùa 11.667.
Tình hình HIV/AIDS
Tính đến hết ngày 25/5/2022, toàn tỉnh phát hiện 17 ca nhiễm HIV mới, có 07 người nhiễm HIV/AIDS tử vong. Số xã/ phường phát hiện có người nhiễm HIV là 240/260 xã, phường, thị trấn. Điều trị ARV cho 1.350 bệnh nhân, số bệnh nhân HIV đang quản lý tại 10 phòng khám là 1.350 người, có 03 người phơi nhiễm với HIV, 03 người được kê đơn mua thuốc điều trị. Số người nhiễm HIV/AIDS còn sống (được báo cáo): 2.242 người. Trong đó phụ nữ nhiễm HIV/AIDS: 756 người; Lũy tích số người nhiễm HIV/AIDS tử vong: 1.872 người.
Công tác An toàn Vệ sinh thực phẩm
Ngành Y tế, theo chức năng nhiệm vụ được phân công về quản lý ATTP, đã tích cực triển khai các hoạt động quản lý cơ sở thực phẩm, cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP theo quy định của Luật ATTP; kiểm tra, giám sát mối nguy ô nhiễm thực phẩm, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý nghiêm các vi phạm về ATTP. Tăng cường tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về điều kiện bảo đảm ATTP đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, lưu thông thực phẩm.
Hoạt động giáo dục
Theo báo cáo Sở Giáo dục và Đào tạo, đến ngày 31/5/2022 toàn ngành có 742 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên. Tổng số trẻ mầm non, mẫu giáo, học sinh, học viên là 491.623, trong đó có 98.412 trẻ mầm non mẫu giáo; 150.794 học sinh tiểu học; 104.934 học sinh trung học cơ sở; 54.853 học sinh trung học phổ thông; 8.838 học viên giáo dục thường xuyên.
Giáo dục mầm non: 100% các cơ sở tổ chức đón trẻ linh hoạt, phù hợp với tình hình phòng chống dịch Covid-19 của địa phương. Huy động trẻ đến trường lớp; Trẻ nhà trẻ 25.056 đạt 45,4%, trẻ mẫu giáo 73.356 đạt 98,4%, trẻ mẫu giáo khuyết tật hòa nhập 111 trẻ đạt 82,2%.
Giáo dục phổ thông: Tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục triển khai chương trình cốt lõi theo hướng dẫn của Bộ GDĐT, hoàn thành chương trình giáo dục, bảo đảm kết thúc năm học theo đúng kế hoạch. Hoàn thành việc tổ chức thi nghề đối với cấp THCS, THPT năm học 2021-2022; tổ chức khảo sát chất lượng học kỳ II đối với lớp 9,10,11,12 tại các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh.
Giáo dục thường xuyên: Các cơ sở đã thực hiện hiệu quả chương trình GDTX cấp THPT kết hợp với học nghề góp phần phân luồng học sinh sau THCS và nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho người lao động. Các cơ sở GDTX đã phối hợp với Phòng GDĐT, các cơ sở đào tạo trong và ngoài tỉnh thực hiện tư vấn hướng nghiệp cho học sinh, lồng ghép các chủ đề hướng nghiệp trong chương trình giáo dục phổ thông và hoạt động tư vấn tuyển sinh.
Tiếp tục đổi mới Kỳ thi Tuyển sinh lớp 10 THPT công lập năm học 2022-2023, Sở Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì, phối hợp với đơn vị cung cấp dịch vụ triển khai ứng dụng dịch vụ công trực tuyến trong công tác tuyển sinh lớp 10 THPT; tổ chức các hội nghị, tập huấn triển khai hệ thống tuyển sinh đầu cấp tới 100% hiệu trưởng các trường có cấp THCS, Lãnh đạo Phòng GDĐT, hiệu trưởng trường THPT. Tích cực triển khai các văn bản liên quan đến công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2022.
Sáu tháng đầu năm, Sở GDĐT đã thành lập các đoàn đánh giá ngoài, tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục đối với 52 cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học trên địa bàn tỉnh. Hiện tại có 679/732 cơ sở giáo dục được công nhận trường đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 92,4% (trong đó mức độ 1 đạt 73,3%, mức độ 2 đạt 19,9%).
Văn hoá - Thể thao
Lĩnh vực văn hóa
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 1230/QĐ-TTg ngày 15/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình Bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025; Quyết định 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030; Quyết định 2026/QĐ-TTg ngày 02/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam, giai đoạn 2021 - 2030; Phối hợp với Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia hoàn thành hồ sơ Nghệ thuật chèo tỉnh Thái Bình trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và chuẩn bị lập hồ sơ Nghệ thuật Chèo đồng bằng sông Hồng trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Chỉ đạo Bảo tàng tỉnh tổ chức Hội chợ quê và Phố ông Đồ trong dịp Tết phục vụ hoạt động vui chơi, giải trí và tuyên truyền, giáo dục văn hóa truyền thống của quê hương; thuyết minh phục vụ 11 đoàn khách và trên 600 lượt khách tham quan. Tra cứu, khảo sát, sưu tầm tư liệu, hình ảnh hiện vật, triển khai thi công trưng bày nhà Lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại xã Đông Lâm, huyện Tiền Hải và trưng bày chuyên đề “Bác Hồ về thăm Thái Bình - Đảng bộ nhân dân Thái Bình làm theo lời Bác” tại Bảo tàng tỉnh nhân kỷ niệm 60 năm Ngày Bác Hồ về thăm Thái Bình lần thứ Tư (26/3/1962 - 26/3/2022). Tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng 03 di tích quốc gia: Miếu Giai, xã Minh Lãng, huyện Vũ Thư; Đình Đa Cốc, Đình Thượng Hiền, xã Nam Bình, huyện Kiến Xương.
Lĩnh vực thể thao
Theo báo cáo Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, Sở tổ chức thành công giải: Vô địch Cờ tướng các nhóm tuổi; giải vô địch Bóng đá Nhi đồng; vô địch Bóng bàn các Câu lạc bộ cúp Báo Thái Bình; giải Việt dã tỉnh Thái Bình; giải vô địch Bóng đá FUTSAL khối công chức, viên chức. Tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 85/KH-UBND ngày 03/6/2022 tổ chức Lễ Khai mạc Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Thái Bình lần thứ IX năm 2022. Xây dựng Điều lệ tổ chức Giải Bóng chuyền Bông lúa vàng tỉnh Thái Bình trong trương trình Lễ khai mạc Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Thái Bình lần thứ IX. Tiếp tục chỉ đạo các đơn vị, huyện thành phố tổ chức Đại hội Thể dục thể thao cấp cơ sở. Phối hợp Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức giải thể thao học sinh năm học 2021 - 2022. Tổ chức thành công Lễ khai mạc hè, Ngày Olympic trẻ em và Phát động toàn dân tập luyện môn bơi phòng chống đuối nước tỉnh Thái Bình năm 2022; mở lớp tập huấn chuyên môn, phương pháp dạy bơi, cứu đuối và lớp lặn có khí tài phòng chống thiên tai.
Chỉ đạo Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao thực hiện tốt công tác quản lý vận động viên, duy trì việc giảng dạy, huấn luyện đảm bảo theo kế hoạch, nhất là trong thời điểm dịch bệnh Covid-19. Ban hành Kế hoạch tham dự Đại hội Thể thao toàn quốc lần thứ IX và các giải thể thao năm 2022; văn bản triển khai thực hiện Nghị quyết 34/2021/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về….; ban hành các Kế hoạch: Tuyển chọn vận động viên năm 2022; quản lý vận động viên giai đoạn năm 2022 - 2025; nuôi dưỡng vận động viên năm 2022. Sáu tháng đầu năm, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao tổ chức tập huấn, tham gia thi đấu 06 giải (JuJitsu vô địch các Câu lạc bộ; Lặn vô địch bể 25m; Whusu vô địch các đội mạnh toàn quốc; Câu lạc bộ Kicboxing toàn quốc; Cầu lông các cây vợt xuất sắc; vô địch Karate miền Bắc) đạt 08 HCV, 08 HCB, 09 HCĐ.
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thái Bình đã tổ chức Lễ tuyên dương, khen thưởng vận động viên, huấn luyện viên đạt thành tích xuất sắc tại SEA Games 31. Tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á (SEAGAMES 31), Thái Bình có 04 huấn luyện viên được triệu tập tham gia làm trọng tài; có 10 vận động viên tham gia thi đấu đạt 06 HCV, 03 HCB, 03 HCĐ ở các môn: Đua thuyền (05 HCV, 01 HCB); Cầu lông (03 HCĐ); Wushu (01 HCV); Bóng chuyền nữ (01 HCB); Lặn (01 HCB); vinh dự có 03 cầu thủ Bóng đá của đội tuyển U23 Việt Nam trưởng thành từ Trường Năng khiếu Thể dục thể thao nay là Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao tỉnh đã góp sức giành được HCV môn bóng đá nam.
Tình hình an toàn giao thông
Theo báo cáo của Công an tỉnh Thái Bình, từ ngày 15/5/2022 đến ngày 14/6/2022 trên địa bàn tỉnh xảy ra 9 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 4 người chết và 11 người bị thương. Tính chung 6 tháng đầu năm toàn tỉnh xảy ra 56 vụ tai nạn giao thông, làm 25 người chết và 48 người bị thương.
Tình hình cháy nổ
Theo báo cáo từ Phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và Cứu nạn cứu hộ, trong tháng 6 năm 2022, trên địa bàn tỉnh Thái Bình không xảy ra cháy, nổ. Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2022, toàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy (giảm 05 vụ so với cùng kỳ) gây thiệt hại 42,9 triệu đồng./.