Sáu tháng đầu năm 2021, triển vọng kinh tế toàn cầu đã được cải thiện rõ rệt sau khi các quốc gia triển khai vắc-xin hiệu quả và đối phó tốt hơn với dịch Covid-19. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa tỷ lệ tiêm chủng của các nền kinh tế phát triển với các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đã làm kinh tế thế giới phục hồi không đồng đều và chưa ổn định.
Các biện pháp hạn chế đi lại dự kiến sẽ được áp dụng trong suốt năm 2021 và thậm chí lâu hơn nữa tại nhiều nơi. Do vậy, dòng vốn FDI toàn cầu vào năm 2021 dự kiến sẽ giảm 60% kể từ năm 2015, từ 2 nghìn tỷ USD xuống dưới 900 tỷ USD. Ngân hàng thế giới và Liên minh châu Âu đều dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2021 đạt 5,6%. Các nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, EU dự báo đạt mức tăng trưởng khá nhờ nỗ lực tiêm vắc-xin và ban hành những gói cứu trợ nền kinh tế. Giá cả hàng hóa thế giới có xu hướng tăng, thị trường chứng khoán toàn cầu tăng mạnh. Tại Việt Nam, Ngân hàng thế giới đã đưa ra nhận định kinh tế Việt Nam tăng 6,6% trong năm 2021, là động lực tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á.
Trong nước, tiếp đà phục hồi và tăng trưởng tích cực từ cuối năm 2020, kinh tế vĩ mô nước ta tiếp tục ổn định, thời tiết những tháng đầu năm tương đối thuận lợi, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt là những điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, dịch Covid-19 bùng phát ở một số tỉnh, thành phố đã đặt ra không ít thách thức trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.
Trước những thuận lợi và khó khăn đan xen, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình ngay từ đầu năm đã chỉ đạo các sở, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong 6 tháng đầu năm 2021 đánh giá trên các mặt như sau:
TÌNH HÌNH KINH TẾ
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)
Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2021 đạt mức tăng 4,92% so với cùng kỳ. Một số ngành sản xuất kinh doanh đã linh hoạt điều chỉnh phù hợp với sản xuất kinh doanh trong điều kiện vừa thực hiện phòng chống dịch Covid-19 vừa đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên, hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành vẫn chưa tăng trưởng phục hồi trở lại trong tình hình dịch bệnh thời gian qua.
Sáu tháng đầu năm 2021, Tổng sản phẩn trên địa bàn (GRDP) tỉnh Thái Bình (giá so sánh 2010) ước đạt 26.947 tỷ đồng, tăng 4,92% so với cùng kỳ năm 2020.
Khu vực Nông lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 6.571 tỷ đồng, tăng 1,71% so với cùng kỳ, đóng góp 0,43 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
Khu vực Công nghiệp - Xây dựng ước đạt 10.770 tỷ đồng, tăng 7,93% so với cùng kỳ, đóng góp 3,08 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng; trong đó: ngành công nghiệp tăng 9,7% (đóng góp 2,59 điểm phần trăm), ngành xây dựng tăng 4,05%.
Khu vực Dịch vụ ước đạt 8.089 tỷ đồng, tăng 4,35% so với cùng kỳ, đóng góp 1,31 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; thuế sản phẩm đóng góp 0,1% vào mức tăng trưởng chung.
Cơ cấu GRDP tỉnh Thái Bình ước 6 tháng năm 2021 (theo giá hiện hành) như sau: khu vực Nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 24,7%; khu vực Công nghiệp - Xây dựng chiếm 40,1%; khu vực Dịch vụ chiếm 29,8%; thuế sản phẩm chiếm 5,4%.
Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2021 thời tiết thuận lợi, chi phí phân bón, thuốc trừ sâu, chuột hạn giảm, năng suất lúa đạt cao hơn so cùng kỳ, đàn gia cầm phát triển ổn định; tuy nhiên, dịch tả lợn châu Phi đã được kiểm soát nhưng tốc độ tái đàn lợn chậm do tâm lý thận trọng bởi nguy cơ dịch bệnh cao, nguồn vốn chăn nuôi lớn, giá cả biến động bất thường ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất. Thủy sản duy trì mức tăng ổn định về sản lượng nuôi trồng và khai thác.
Nông nghiệp
Trồng trọt
Cây hàng năm
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông Xuân 2021 đạt 127.532 ha, tăng 0,2% so với vụ Đông Xuân 2020; trong đó: diện tích gieo trồng vụ Đông đạt 36.354 ha, tăng 0,2% so với vụ Đông năm trước; diện tích gieo trồng vụ Xuân đạt 91.178 ha, tăng 0,2% so với vụ Xuân 2020.
Sản xuất lúa Xuân: Tổng diện tích gieo trồng lúa vụ Xuân đạt 76.532 ha, tăng 280 ha (+0,37%) so với vụ Xuân 2020 do vụ Xuân năm nay diện tích bỏ hoang ít (khoảng 101,5 ha, năm 2020 diện tích này là 599,4 ha), diện tích gieo trồng của một số doanh nghiệp tăng. Diện tích lúa dài ngày 2.541 ha, chiếm 3,3%, các giống lúa ngắn ngày có diện tích 73.991 ha, chiếm 96,7% tổng diện tích lúa Xuân. Giống lúa thuần có năng suất cao chiếm 61,8% gồm các giống lúa lai, Q5, BC 15, TBR 225... Các giống lúa có chất lượng gạo ngon (kể cả giống ngắn ngày) có diện tích 29.275 ha, chiếm 38,2% tổng diện tích lúa Xuân.
Ước tính năng suất lúa Xuân năm 2021 đạt 71 tạ/ha, tăng 0,31 tạ/ha so với vụ Xuân 2020; sản lượng ước đạt 543,4 nghìn tấn, tăng 4,4 nghìn tấn (+0,8%) so với cùng kỳ năm trước.
Sản xuất rau màu: Vụ Đông Xuân năm 2021 nhìn chung các cây trồng hàng năm đều phát triển thuận lợi. Tổng diện tích gieo trồng các loại cây màu vụ Đông Xuân 2021 đạt 51.000 ha, năng suất sơ bộ ước đạt tương đương với năm trước. Cụ thể: Cây ngô năng suất sơ bộ đạt 58,3 tạ/ha, tăng 1,2 tạ/ha (+2,2%), sản lượng sơ bộ đạt 47.875 tấn, giảm 358 tấn (-0,7%) so với vụ Đông Xuân năm 2020 do diện tích gieo trồng giảm 240 ha (-2,8%) so với cùng kỳ. Cây khoai lang năng suất sơ bộ đạt 125,1 tạ/ha, tăng 1,9 tạ/ha (+1,6%), do diện tích gieo trồng giảm nên sản lượng sơ bộ đạt 35.084 tấn, giảm 51 tấn (-0,2%) so với vụ Đông Xuân năm 2020. Cây đậu tương năng suất sơ bộ đạt 18,1 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha (+1,5%) do diện tích giảm nên sản lượng sơ bộ đạt 1.531 tấn, giảm 202 tấn (-11,7%) so với vụ Đông Xuân năm 2020.
Tổng diện tích cây màu xuân đã thu hoạch xong 14.655 ha, bằng 100% tổng diện tích cây màu Xuân đã trồng; diện tích cây màu hè đã trồng 10.300 ha, đạt 93,6% kế hoạch đề ra.
Cây lâu năm
Tổng diện tích cây lâu năm hiện có ước đạt 8.157 ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ; trong đó, diện tích nhóm các loại cây ăn quả đạt 5.809 ha, tăng 0,2%; diện tích nhóm cây gia vị, dược liệu lâu năm đạt 968 ha, tăng 4,3%; diện tích cây lâu năm khác bao gồm cả cây cảnh quất, đào và cây cảnh khác đạt 1.225 ha, giảm 1,9% so cùng kỳ. Diện tích cây ăn quả tăng chủ yếu tập trung ở nhóm cây như xoài, chuối, thanh long, mít,…các loại cây khác thuộc nhóm có múi như cam, quýt, bưởi cũng có diện tích tăng 0,3%. Thời tiết năm nay diễn biến thuận lợi, cây ăn quả được mùa có năng suất đạt khá, sản lượng tăng cao hơn so với năm trước.
Chăn nuôi
Trong 6 tháng đầu năm tình hình chăn nuôi ít bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid - 19, sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường.
Chăn nuôi gia súc: Chăn nuôi trâu, bò đã có sự biến động tăng do các địa phương đang quyết liệt thực hiện đề án phát triển đàn trâu, bò thương phẩm theo chuỗi liên kết giai đoạn 2019 - 2025 và những năm tiếp theo nhằm chuyển đổi cơ cấu ngành chăn nuôi đưa trâu, bò trở thành một trong những đối tượng vật nuôi chủ lực trên địa bàn tỉnh. Ước tính đến hết tháng 6/2021 đạt 56,2 nghìn con, tăng 2,4% so cùng kỳ; trong đó tổng đàn trâu đạt 6,5 nghìn con, tăng 2%; tổng đàn bò đạt 49,7 nghìn con, tăng 2,4% so cùng kỳ.
Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng tháng 6/2021 ước đạt 873 tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng quý II/2021 ước đạt 2.598 tấn, tăng 3,2% so với quý trước và tăng 7,1% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021 sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng ước đạt 5.115 tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ.
Chăn nuôi lợn: Hiện tại, đàn lợn đang được khôi phục sau dịch tả lợn Châu Phi, tuy nhiên, việc tái đàn còn chậm. Nhiều hộ chăn nuôi nhỏ chưa quay lại tái đàn do phải đối mặt với nhiều khó khăn về giá cả thị trường biến động bất thường (một số nguồn thực phẩm nhập khẩu tăng…), nguồn vốn hạn hẹp, giá con giống quá cao, rủi do chăn nuôi lớn.
Ước tính tổng đàn lợn tại thời điểm tháng 6/2021 đạt 674,7 nghìn con, tăng 3,5% so cùng kỳ. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tháng 6/2021 ước đạt 12,6 nghìn tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý II/2021 ước đạt 36,5 nghìn tấn, giảm 7,5% so với quý trước và tăng 0,7% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021 sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 76 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2020.
Chăn nuôi gia cầm:
Nhiều hộ trang trại, gia trại đã chuyển từ chăn nuôi lợn sang nuôi gia cầm để bù đắp chi phí thua lỗ trong nuôi lợn và duy trì quy mô chuồng trại đã xây. Tổng đàn gia cầm tại hiện vẫn đang ở mức cao, số lượng đàn trong những tháng gần đây đã có phần chững lại do thời tiết nắng nóng bất thường, giá các mặt hàng thịt gia cầm có xu hướng giảm vì sản xuất số lượng lớn bị ép giá, khó bán vì vậy bà con nông dân cũng phần nào hạn chế không tăng đàn.
Tổng đàn gia cầm tại thời điểm tháng 6/2021 ước đạt 13,9 triệu con, tăng 0,2%; trong đó, đàn gà ước đạt 9,9 triệu con, tăng 0,1% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng tháng 6/2021 ước đạt 4,2 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021 sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 29,4 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ; trong đó sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng đạt 20,8 nghìn tấn, tăng 2,2%; sản lượng trứng gia cầm đạt 166,5 triệu quả, tăng 3,8% so với cùng kỳ 2020.
Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp 6 tháng đầu năm 2021 tập trung vào việc chăm sóc, bảo vệ rừng và tiếp tục chỉ đạo các xã ven biển tăng cường công tác quản lý, chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện trồng bổ sung rừng ngập mặn ven biển đạt kết quả tốt.
Sáu tháng đầu năm 2021 đã trồng mới được 10,1 ha rừng, bằng 48,8% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác tháng 6/2021 ước đạt 432 m3, giảm 10,9%; sản lượng củi khai thác ước đạt 850 ste, tăng 11,3% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác quý II/2021 ước đạt 757 m3, tăng 90,2% so với quý trước nhưng giảm 1,8% so với cùng kỳ; sản lượng củi khai thác ước đạt 2.412 ste, tăng 39,8% so với quý trước nhưng giảm 2,2% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng năm 2021 sản lượng gỗ khai thác ước đạt 1.155 m3, giảm 2%; sản lượng củi khai thác ước đạt 4.137 ste, giảm 0,3% so với cùng kỳ. Nguyên nhân do trên địa bàn tỉnh chủ yếu là cây trồng phân tán nên sản lượng gỗ, củi khai thác rất hạn chế.
Thuỷ sản
Sản xuất thủy sản tiếp tục phát huy thế mạnh về khai thác và nuôi trồng thủy sản ven biển, duy trì các mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao. Tổng sản lượng thủy sản tháng 6/2021 ước đạt 20,8 nghìn tấn, tăng 4,3% so với cùng kỳ. Tổng sản lượng thủy sản quý II/2021 ước đạt 61,5 nghìn tấn, giảm 1,2% so với quý trước và tăng 3,7% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021 tổng sản lượng thủy sản ước đạt 123,7 nghìn tấn, tăng 3,6% so với cùng kỳ.
Khai thác
Trong những tháng đầu năm, thời tiết tương đối ổn định cho hoạt động khai thác biển. Tuy có một số ngày bị ảnh hưởng của những trận mưa lớn biển động một số tàu thuyền không thể ra khơi đánh bắt song cũng không ảnh hưởng nhiều đến sản lượng khai thác chung của toàn tỉnh.
Sản lượng khai thác tháng 6/2021 ước đạt 8,7 nghìn tấn, tăng 6,8% so với cùng kỳ; trong đó, cá đạt 5,4 nghìn tấn, tăng 7,7%; tôm đạt 0,1 nghìn tấn, tăng 2,3%; thủy sản khác đạt 3,2 nghìn tấn, tăng 5,5% so với cùng kỳ. Sản lượng khai thác quý II/2021 ước đạt 26,2 nghìn tấn, tăng 5,3% so với quý trước và tăng 7,6% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 16,3 nghìn tấn, tăng 4,6% so với quý trước và tăng 8,4% so với cùng kỳ; tôm đạt trên 0,3 nghìn tấn, giảm 29,9% so với quý trước và giảm 29,2% so với cùng kỳ; thủy sản khác đạt 9,6 nghìn tấn, tăng 8,1% so với quý trước và tăng 7,8% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm sản lượng khai thác ước đạt 51 nghìn tấn, tăng 3,9% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 32 nghìn tấn, tăng 4,4%; tôm đạt 0,7 nghìn tấn, tăng 3,3%; thủy sản khác đạt 18,4 nghìn tấn, tăng 2,9% so với cùng kỳ.
Nuôi trồng
Sản lượng nuôi trồng thủy sản tháng 6/2021 ước đạt 12 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 3,6 nghìn tấn, tăng 7,5%; tôm đạt 0,3 nghìn tấn, giảm 1,6%; thủy sản khác đạt 8,1 nghìn tấn, tăng 0,6% so với cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng quý II/2021 ước đạt 35,3 nghìn tấn, giảm 5,5% so với quý trước và tăng 1,1% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 10,3 nghìn tấn, tăng 15,8% so với quý trước và tăng 12,6% so với cùng kỳ; tôm đạt 0,7 nghìn tấn, tăng 1,4 lần so với quý trước và giảm 6,5% so với cùng kỳ; thủy sản khác đạt 24,2 nghìn tấn, giảm 13,8% so với quý trước và giảm 3% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm sản lượng nuôi trồng ước đạt 72,7 nghìn tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 19,4 nghìn tấn, tăng 6,7%; tôm đạt 1,0 nghìn tấn, giảm 5,3%; thủy sản khác đạt 52,3 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ.
Tình hình nuôi trồng thủy sản lồng bè đã và đang phát triển ổn định tại các địa phương, đối tượng chủ yếu nuôi là cá lăng và cá diêu hồng; sản lượng nuôi lồng bè 6 tháng đầu năm ước đạt 1,2 nghìn tấn, tăng 3,9% so với cùng kỳ. Đây cũng là một trong những thế mạnh của các huyện Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Vũ Thư... góp phần vào tăng giá trị kinh tế của ngành thủy sản trong tỉnh.
Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm đạt được giá trị sản xuất tăng 10,8% so cùng kỳ. Các doanh nghiệp công nghiệp vừa thực hiện sản xuất, vừa phòng dịch hiệu quả, có lợi thế hơn so với cùng kỳ năm trước. Ngành công nghiệp chế biến tăng cao, trong đó một số ngành sản xuất phục hồi và tăng cao như chế biến thức ăn chăn nuôi, chế biến thủy sản, một số doanh nghiệp nhận được đơn hàng tăng, mở rộng dây chuyền sản xuất. Tuy nhiên, dịch Covid 19 diễn biến phức tạp các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ như ngành: sản xuất đồ uống, ngành dệt sợi, may mặc, ngành sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic, sắt thép, tai nghe dùng cho máy bay…
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tỉnh Thái Bình tháng 6/2021 tăng 2% so tháng 5/2021, tăng 11% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành Khai khoáng tăng 0,1% so với tháng trước; Công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 99,8%, Sản xuất và phân phối điện tăng 10,4%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,3%.
Tính chung chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2021 tăng 10,3% so cùng kỳ; trong đó Khai khoáng tăng 5%, Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,2%, Sản xuất và phân phối điện tăng 2,6%, Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải nước thải tăng 12,7%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu
Ngành sản xuất đồ uống giảm do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, sản phẩm bia hơi 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 4,7 triệu lít bằng 90,1% so cùng kỳ năm 2020 tương ứng với giảm sản lượng 517 nghìn lít; sản phẩm bia 6 tháng chai ước đạt 4,9 triệu lít bằng 69,5% so cùng kỳ tương ứng giảm sản lượng 2,2 triệu lít; sản phẩm bia lon 6 tháng đầu năm ước đạt 14,6 triệu lít, bằng 85,5% so cùng kỳ tương ứng giảm sản lượng 2,5 triệu lít.
Ngành dệt may đang phục hồi sản xuất nhưng sản lượng sản xuất mới chỉ đạt từ 70 đến 85% công suất của máy móc. Sản phẩm sợi 6 tháng đầu năm ước bằng 91,5% so cùng kỳ, tương ứng giảm sản lượng 3,47 nghìn tấn. Sản phẩm khăn mặt 6 tháng đầu năm bằng 96,6% so cùng kỳ, tương ứng giảm sản lượng 0,7 nghìn tấn. Sản phẩm áo sơ mi 6 tháng đầu năm ước đạt 15.176 nghìn cái, tương đương cùng kỳ.
Ngành sản xuất kim loại sản phẩm sắt thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc thô 6 tháng ước tăng 9,6%. Sản phẩm thép cán bằng 82,4% so cùng kỳ năm 2020.
Một số sản phẩm có sản lượng 6 tháng đầu năm tăng cao so cùng kỳ như: Bộ đèn sử dụng cho cây NOEL (+162,8%), Phụ tùng khác của xe có động cơ (+124%); Túi khí an toàn (+117,9%)… Bên cạnh đó một số sản phẩm có sản lượng giảm mạnh như: Tai nghe khác (-54,5%); Bia chai (-30,5%); Cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại (-41,5%)…
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm tháng 6/2021 đạt 97,5% so tháng 5/2021 và tăng 10,8% so cùng kỳ.
Chỉ số tồn kho tính đến tháng 6/2021, chỉ số tồn kho ngành chế biến chế tạo tăng 3,1% so tháng 5/2021 ở một số ngành như: sản xuất trang phục 6,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 4,2%, sản xuất hóa chất tăng 12,5%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plactic tăng 7,6%, sản xuất kim loại 5,1%, sản xuất giường tủ bàn ghế 18%, công nghiệp chế biến chế tạo tăng 4,8%... Chỉ số tồn kho tháng 6/2021 so với tháng 6/2020 tăng 86,6% tăng nhiều ở một số ngành như: giấy và sản phẩm từ giấy tăng 85,8%, sản xuất thuốc hóa dược liệu tăng 99,4% do ngành nghề sơ chế tinh dầu hòe là một ngành sản xuất công nghiệp mang tính chất thời vụ vì phụ thuộc hoàn toàn vào sản phẩm thu hoạch. Tuy nhiên, trong thời kỳ dịch bệnh Covid-19 kéo dài từ đầu năm đến giờ lượng hàng sản xuất ra chưa xuất bán được kéo theo lượng hàng hóa tồn kho cao. Sản xuất sản phẩm từ cao su và platic tăng 191,6% so cùng kỳ năm 2020 do ảnh hưởng của dịch bệnh doanh nghiệp giảm đơn hàng xuất khẩu trên cả thị trường trong nước và quốc tế.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm tháng 6/2021 tăng 1,3% so tháng trước, tăng 1,7% so với cùng kỳ. Chia theo loại hình kinh tế thì Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng 99,4%; Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 3,4%; Doanh nghiệp Nhà nước tăng 4,8%.
Qua khảo sát thực tế xu hướng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chế biến, chế tạo quý II/2021: Xu hướng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chế biến, chế tạo quý II/2021 so với quý I/2021: số doanh nghiệp có tình trạng sản xuất tốt lên là 24,7%, giữ nguyên là 56,8%, khó khăn hơn là 18,5%. Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo xu hướng về khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo tăng lên chiếm 24,1%, giữ nguyên chiếm 58%, giảm đi chiếm 17,9%.
Dự tính tình hình sản xuất quý III/2021 so với quý II/2021: tỷ lệ doanh nghiệp sản xuất tốt lên chiếm 46,9%, giữ nguyên chiếm 45,1% và khó khăn hơn chỉ chiếm 8%. Xu hướng về khối lượng sản xuất tỷ lệ doanh nghiệp dự báo tăng lên 46,3%, giữ nguyên 45,7% và giảm đi chỉ chiếm 8%.
Đầu tư – xây dựng
Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước tháng 6/2021 ước đạt 415 tỷ đồng, tăng 9,4% so tháng trước và tăng 4,3% so cùng kỳ;
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước quý II/2021 ước đạt 1.146 tỷ đồng, tăng 32,2% so quý trước và tăng 8% so cùng kỳ. Vốn đầu tư thực hiện cấp tỉnh ước đạt 635 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ; trong đó vốn cân đối ngân sách tỉnh ước đạt 443 tỷ đồng, tăng 30,9% so cùng kỳ; vốn ngân sách huyện ước đạt 343 tỷ đồng, tăng 54,6% so cùng kỳ; vốn ngân sách cấp xã ước đạt 167 tỷ đồng, bằng 64% so cùng kỳ.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm ước đạt 2.013 tỷ đồng, tăng 7,4% so cùng kỳ. Vốn đầu tư thực hiện cấp tỉnh ước đạt 1.065 tỷ đồng, tăng 7,3%; trong đó vốn cân đối ngân sách tỉnh ước đạt 752 tỷ đồng, tăng 20,3%; vốn ngân sách huyện ước đạt 627 tỷ đồng, tăng 56,3%; vốn ngân sách cấp xã ước đạt 321 tỷ đồng, bằng 66,8% so cùng kỳ.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội quý II/2021 ước đạt 11.539 tỷ đồng, tăng 2,7% so với quý trước và tăng 4,9% so cùng kỳ năm 2020. Trong đó: Vốn đầu tư thuộc nguồn vốn nhà nước ước đạt 3.804 tỷ đồng, tăng 74%; vốn đầu tư khu vực kinh tế ngoài nhà nước thực hiện 7.112 tỷ đồng, bằng 87,1%; vốn đầu tư khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện 623 tỷ đồng, bằng 95,1% so cùng kỳ.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 6 tháng đầu năm ước đạt 22.773 tỷ đồng, tăng 5,8% so cùng kỳ. Trong đó: Vốn đầu tư thuộc nguồn vốn nhà nước nhà nước ước đạt 7.266 tỷ đồng, tăng 38%; vốn đầu tư khu vực kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 14.097 tỷ đồng, bằng 94%; vốn đầu tư khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện 1.410 tỷ đồng, tăng 11,9% so cùng kỳ.
Trong 6 tháng đầu năm, rất nhiều dự án công trình trọng điểm của tỉnh được tiếp tục triển khai, tuyến đường bộ ven biển, dự án cầu Sông Hóa Hải Phòng- Thái Bình, Dự án khu công nghiệp sản xuất nông nghiệp của tập đoàn Thaco; một số dự án đang gấp rút đi vào hoàn thiện xây dựng và lắp đặt máy móc thiết bị.
Một số dự án trọng điểm thi công trong quý II năm 2021
Dự án tuyến đường nối từ thành phố Thái Bình đến cầu Nghìn (BOT) tổng vốn đầu tư 2.586,83 tỷ đồng (vốn nhà nước 785,97 tỷ đồng).
Dự án Cải tạo nâng cấp đường ĐT.452 tổng mức đầu tư là 101,427 tỷ đồng.
Dự án Cải tạo, nâng cấp tuyến đường ĐT.455 (đường 216 cũ) đoạn từ xã Quỳnh Nguyên đến xã Quỳnh Mỹ, huyện Quỳnh Phụ. Tổng vốn thực hiện 12 tỷ đồng.
Dự án Tuyến đường tỉnh 454 (đường 223) đoạn từ đường Trần Thái Tông đến nút giao với Quốc lộ 10 tại khu công nghiệp TBS Sông Trà, theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT) với tổng mức đầu tư dự án đạt 291,7 tỷ đồng
Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ ven biển tỉnh Thái Bình, dự án với chiều dài tuyến đường 34,42 km; quy mô các cấp đường cấp III đồng bằng với tổng mức đầu tư đạt 3.872 tỷ đồng.
Xây dựng
Hoạt động xây dựng trong 6 tháng đầu năm có nhiều dự án, công trình trọng điểm tiếp tục được thi công xây dựng như dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ từ thành phố Thái Bình đi cầu Nghìn theo hình thức Hợp đồng xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT), dự án Khu công nghiệp Liên Hà Thái (Green iP-1) tại Thái Thụy.
Tuy nhiên, việc giãn cách xã hội trên địa bàn tỉnh làm ảnh hưởng đến việc thi công các dự án; đồng thời, do nhiều nguyên nhân: công tác giải phòng mặt bằng và nguồn vốn đầu tư gặp nhiều khó khăn, các thủ tục ràng buộc giữa doanh nghiệp thi công và chủ đầu tư chưa được tháo gỡ, thống nhất.
Tình hình đăng ký kinh doanh
Tính đến đầu tháng 6 năm 2021 đã cấp 360 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, 28 chi nhánh, 3 văn phòng đại diện với số vốn đăng ký đạt trên 3.648 tỷ đồng. Xác nhận Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 186 doanh nghiệp; doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là 39 doanh nghiệp, trong đó thu hồi GCN ĐKKD do DN giải thể là 39 doanh nghiệp.
Trong 6 tháng đầu năm 2021 có 01 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, với tổng vốn đăng ký là 17,2 triệu USD, do nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư 100% vốn nước ngoài, đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp.
Thương mại, dịch vụ và giá cả
Tình hình thị trường hàng hóa, dịch vụ tỉnh Thái Bình tháng 6/2021 có xu hướng tăng trở lại sau ảnh hường bởi dịch vào đầu tháng 5/2021, sau khi kết thúc giãn cách xã hội, các hoạt động thương mại, dịch vụ hoạt động trở lại, tuy nhiên hoạt động vận tải hành khách liên tỉnh vẫn trong tình trạng tối giảm công suất. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6/2021 tăng 9,9% so với tháng trước và tăng 1,8% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 7,6%, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tăng 26,9%, lượng hành khách vận chuyển tăng 11,5%, lượng hàng hóa vận chuyển tăng 10,6% so cùng kỳ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 năm 2021 ước đạt 3.946 tỷ đồng, tăng 9,9% so với tháng trước và tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ngành kinh tế, doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 6/2021 ước đạt 3.519 tỷ đồng, tăng 8,1% so với tháng trước và tăng 5,4% so với cùng kỳ. Trong tháng tất cả các nhóm hàng bán lẻ đều tăng so với tháng trước như: Nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 1,1 lần; nhóm hàng may mặc tăng 36,4%; nhóm phương tiện đi lại tăng 25%; nhóm ô tô con tăng 22,5%; nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 16,8%;… Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 10 tỷ đồng, tăng 49,2% so với tháng trước và giảm 9,2% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 208 tỷ đồng, tăng 33,6% so với tháng trước và giảm 17,2% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 209 tỷ đồng, tăng 20,6% so với tháng trước và giảm 24% so với cùng kỳ; riêng dịch vụ lữ hành trong tháng phải tạm ngừng hoạt động do ảnh hưởng từ dịch.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 24.409 tỷ đồng, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ngành kinh tế, doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 21.707 tỷ đồng, tăng 9% so với cùng kỳ. Hầu hết nhóm hàng có giá trị lớn đều tăng so với cùng kỳ như: Nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 7.528 tỷ đồng (chiếm 34,7%), tăng 14,6%; nhóm xăng dầu các loại ước đạt 3.476 tỷ đồng (chiếm 16%), tăng 2,5%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 3.367 tỷ đồng (chiếm 15,5%), tăng 20,2%; nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình ước đạt 2.612 tỷ đồng (chiếm 12%), tăng 2%;… Bên cạnh đó một số nhóm hàng giảm so với cùng kỳ như: Nhóm ô tô con ước đạt 178 tỷ đồng, giảm 21,7%; nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm ước đạt 412 tỷ đồng, giảm 6,2%; nhóm phương tiện đi lại ước đạt 1.085 tỷ đồng, giảm 3%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 1.370 tỷ đồng, giảm 0,2% so với cùng kỳ. Do ảnh hưởng của dịch vào cuối tháng 01/2021 tạo tâm lý người dân hạn chế ăn uống ngoài gia đình, bên cạnh đó việc triển khai cao độ thực hiện Nghị định 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ, nhiều cơ sở ăn uống nghỉ kinh doanh từ ngày 29 tết và hoạt động trở lại vào ngày mồng 2 tết; đến đầu tháng 5/2021 dịch diễn biến phức tạp, tại Thái Bình xuất hiện các ca nhiễm, phải thực hiện giãn cách xã hội đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động lưu trú, ăn uống, lữ hành. Doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 1.309 tỷ đồng, tăng 0,1%; doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 59 tỷ đồng, giảm 0,2%; doanh thu dịch vụ lữ hành ước đạt 1 tỷ đồng, giảm sâu 81,4% so với cùng kỳ.
Doanh thu dịch vụ khác ước đạt 1.333 tỷ đồng, giảm 5,6% so với cùng kỳ, là nhóm chịu tác động lớn từ dịch bệnh trong 6 tháng đầu năm, trong đó: Dịch vụ giáo dục và đào tạo giảm 28,2%; dịch vụ sửa chữa giảm 13%; dịch vụ nghệ thuật vui chơi và giải trí giảm 12,9%; dịch vụ hành chính và hỗ trợ giảm 7%;…
Giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 năm 2021 giảm 0,07% so với tháng trước; tăng 0,61% so với cùng tháng năm trước; tăng 1,23% so với tháng 12 năm trước. Một số yếu tố góp phần làm tăng, giảm chỉ số giá trong tháng: giá gạo giảm do đang vào mùa thu hoạch vụ đông xuân, cùng với đó gạo trong nước không xuất khẩu được, dẫn đến giảm giá; giá thịt lợn hơi giảm kéo theo giá thịt thành phẩm giảm. Thời tiết nắng nóng kéo dài nhu cầu tiêu dùng thịt giảm và ảnh hưởng của dịch Covid-19 các dịch vụ cưới hỏi, giỗ chạp,….phải thu hẹp; giá xăng dầu tăng trong tháng vào ngày 12/6/2021 giá xăng A95 tăng 630 đồng/lít; giá xăng E5 tăng 620 đồng/lít; giá dầu diezen 0,05 tăng 670 đồng/lít; giá dầu hỏa tăng 590 đồng/lít.
CPI bình quân cùng kỳ giảm 0,21% so với cùng kỳ năm trước, đây là lần đầu tiên CPI giảm trong 4 năm gần đây. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 7 nhóm hàng có chỉ số giá giảm: chỉ số nhóm văn hóa, giải trí du lịch giảm 4,32%; chỉ số nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 2,48%; chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,43%; chỉ số giá nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,41%; chỉ số giá nhóm thiết bị đồ dùng gia đình giảm 0,36%; chỉ số giá nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép giảm 0,21%; chỉ số giá nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,17%. Còn lại 4 nhóm có chỉ số tăng: chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 7,03%; chỉ số giá nhóm giao thông tăng 6,59%; chỉ số giá nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,22%; chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03%.
Xuất nhập khẩu hàng hoá
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 6 năm 2021 ước đạt 238 triệu USD, giảm 14,9% so với tháng trước và tăng 10,7% so với cùng kỳ.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 1.599 triệu USD, tăng 26,9% so với cùng kỳ; trong đó xuất khẩu đạt 796 triệu USD, tăng 19,7%; nhập khẩu đạt 803 triệu USD, tăng 34,8%.
Kim ngạch xuất nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2021 tăng cao do lợi thế so với 6 tháng đầu năm 2020 dịch bắt đầu bùng phát, thực hiện chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ cách ly toàn xã hội trên phạm vi cả nước, hoạt động xuất nhập khẩu bị ngưng nên nhiều đơn hàng phải tạm ngừng. Sáu tháng đầu năm nay dịch tiếp tục bùng phát nhưng với chính sách vừa chống dịch, vừa duy trì sản xuất; bên cạnh đó giá sợi, giá phôi thép tăng nên trị giá xuất nhập khẩu tăng.
Xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu tháng 6/2021 ước đạt 123 triệu USD, giảm 7,4% so với tháng trước và tăng 1,2% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu tháng 6/2021 giảm so với tháng trước do đơn hàng của một số doanh nghiệp giảm, nhiều mặt hàng theo xu hướng mùa vụ nên giá trị xuất khẩu giảm. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 73 triệu USD, giảm 3,8% so với tháng trước và tăng 11% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 50 triệu USD, giảm 12% so với tháng trước và giảm 10,3% so với cùng kỳ. Trong tháng chỉ có mặt hàng sản phẩm từ sắt thép tăng 6,3%, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 1,2%; các mặt hàng còn lại đều giảm so với tháng trước như: Sắt thép giảm 23,1%; sản phẩm gỗ giảm 15%; hàng hóa khác giảm 7,4%; hàng thủy sản giảm 7%; xơ, sợi dệt các loại giảm 6%;...
Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 796 triệu USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 424 triệu USD, tăng 16,1%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 372 triệu USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước như: Sắt thép tăng 10,7 lần; sản phẩm mây, tre, cói và thảm tăng 79,8%; xơ, sợi dệt các loại tăng 69,3%; hàng thủy sản tăng 53,8%; giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 28,1%;... Bên cạnh đó một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 76,3%; xăng dầu các loại giảm 51,8%; sản phẩm gốm sứ giảm 18,4%;...
Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 6/2021 ước đạt 115 triệu USD, giảm 21,7% so với tháng trước và tăng 23,2% so với cùng kỳ. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 62 triệu USD, giảm 15,8% so với tháng trước và tăng 3,1% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 53 triệu USD, giảm 27,6% so với tháng trước và tăng 59,1% so với cùng kỳ. Hầu hết các mặt hàng đều giảm so với tháng trước như: Máy móc, thiết bị phụ tùng khác (-64,7%); máy vi tính, sản phẩm điện tử (-47,4%); phế liệu sắt thép (-30,8%); hàng hóa khác (-27,4%); nguyên phụ liệu dệt, may, da, giầy (-22,4%); hóa chất (-19,2%); vải các loại (-16,1%);… So với cùng kỳ năm trước một số mặt hàng tăng như: Xơ, sợi dệt các loại tăng 3,5 lần; bông các loại tăng 2,4 lần; máy vi tính, sản phẩm điện tử tăng 58,7%; vải các loại tăng 57,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giầy tăng 57%;… Bện cạnh đó một số mặt hàng giảm: Hàng thủy sản (-86,6%); máy móc, thiết bị, phụ tùng khác (-68,6%); sắt thép các loại (-41,2%); chất dẻo nguyên liệu (-36,6%);…
Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 803 triệu USD, tăng 34,8% so với cùng kỳ. Phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 444 triệu USD, tăng 34,1%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 359 triệu USD, tăng 35,7% so với cùng kỳ. Hầu hết các mặt hàng chủ lực có giá trị lớn đều tăng so với cùng kỳ năm trước như: Vải các loại đạt 202 triệu USD (chiếm 25,1%), tăng 32,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, da giày đạt 130 triệu USD (chiếm 16,1%), tăng 48,8%; xăng dầu đạt 189 triệu USD (chiếm 23,5%), tăng 27,7%; phế liệu sắt thép đạt 126 triệu USD (chiếm 15,7%), tăng 72,5%;…Một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ như: Sắt thép các loại (-53,6%); chất dẻo nguyên liệu (-51,2%); hàng thủy sản (-30,3%);...
Hoạt động vận tải
Dịch Covid-19 xuất hiện trên địa bàn tỉnh vào đầu tháng 5/2021, theo đó tỉnh Thái Bình thực hiện giãn cách xã hội từ ngày 06/5/2021, người dân hạn chế đi lại, vận tải hành khách một số tuyến hoạt động với công suất giảm nên hoạt động vận tải có xu hướng giảm trong tháng 5. Tuy vậy 6 tháng đầu năm 2021 hoạt động vận tải vẫn tăng so với cùng kỳ. Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính chuyển phát 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 2.946 tỷ đồng, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó vận tải hành khách tăng 12,8%, vận tải hàng hóa tăng 10,1% so với cùng kỳ.
Vận tải hành khách
Doanh thu vận tải hành khách tháng 6/2021 ước đạt 115 tỷ đồng, tăng 19,6% so với tháng trước và giảm 9,6% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 1,5 triệu người, tăng 13,4% so với tháng trước và giảm 13,3% so với cùng kỳ; số lượt khách luân chuyển ước đạt 167,5 triệu người.km, tăng 17,2% so với tháng trước và giảm 15,4% so với cùng kỳ.
Doanh thu vận tải hành khách quý II/2021 ước đạt 355 tỷ đồng, giảm 20% so với quý trước nhưng tăng 20% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 4,8 triệu người, giảm 19,2% so với quý trước nhưng tăng 17% so với cùng kỳ; số lượt khách luân chuyển ước đạt 526 triệu người.km, giảm 20,4% so với quý trước nhưng tăng 16,5% so với cùng kỳ.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 799 tỷ đồng, tăng 12,8% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 10,8 triệu người, tăng 11,5%; số lượt khách luân chuyển ước đạt 1.186,5 triệu người.km, tăng 10,7% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hoá
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 6/2021 ước đạt 326 tỷ đồng, tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 0,9% so với cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 2 triệu tấn, tăng 3,4% so với tháng trước và tăng 3% so với cùng kỳ. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 769,2 triệu tấn.km, tăng 2,6% so với tháng trước và giảm 1,4% so với cùng kỳ.
Doanh thu vận tải hàng hóa quý II/2021 ước đạt 995 tỷ đồng, giảm 11,2% so với quý trước và tăng 12% so với cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 6 triệu tấn, giảm 14,5% so với quý trước và tăng 13,2% so với cùng kỳ. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 2.288 triệu tấn.km, giảm 7,8% so với quý trước và tăng 9,3% so với cùng kỳ.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, doanh thu vận tải hàng hoá ước đạt 2.115 tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ. Trong đó: vận tải hàng hóa đường bộ ước đạt 1.181 tỷ đồng, tăng 12,8%; vận tải hàng hóa đường ven biển và viễn dương đạt 782 tỷ đồng, tăng 5,6%; vận tải hàng hóa đường thủy nội địa đạt 152 tỷ đồng, tăng 13,6%. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 13 triệu tấn, tăng 10,6%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 4.771 triệu tấn.km, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước.
Dịch vụ hỗ trợ vận tải, bưu chính chuyển phát
Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 6/2021 ước đạt 5 tỷ đồng, tăng 1,3% so với tháng trước và tăng 8,3% so với cùng kỳ; quý II/2021 ước đạt 15,2 tỷ đồng, tăng 0,6% so với quý trước và tăng 24,3% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 30,3 tỷ đồng, tăng 17,4% so với cùng kỳ.
Doanh thu bưu chính chuyển phát tháng 6/2021 ước đạt 0,5 tỷ đồng, tăng 0,2% so với tháng trước và tăng 26,6% so với cùng kỳ; quý II/2021 ước đạt 1,4 tỷ đồng, tăng 2,1% so với quý trước và tăng 36,3% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt 2,7 tỷ đồng, tăng 25,2% so với cùng kỳ.
Thu, chi Ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước ước thực hiện 6 tháng năm 2021 đạt 11.394,2 tỷ đồng, đạt 77,8% so với dự toán, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa ước đạt 4.556,5 tỷ đồng, tăng 49,1%; thu thuế xuất nhập khẩu ước đạt 780 tỷ đồng, tăng 37,7%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt 3.984,4 tỷ đồng giảm 9,7%...
Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 6 tháng năm 2021 đạt 6.399,5 tỷ đồng, giảm 10% so với cùng kỳ; trong đó: chi phát triển kinh tế ước đạt 2.817,1 tỷ đồng, giảm 11%; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt 3.515,7 tỷ đồng, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước.
TÌNH HÌNH VĂN HÓA XÃ HỘI
Sáu tháng đầu năm 2021, Sở Lao động thương binh và xã hội đã tiếp nhận, thẩm định hồ sơ và giải quyết chế độ chính sách cho gần 2.900 lượt thủ tục tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh, 3.200 lượt thủ tục tại bộ phận tiếp nhận, 100% thủ tục được giải quyết đúng và trước thời hạn, không có thủ tục quá hạn.
Lao động và việc làm
Sở Lao động thương binh và xã hội đã kế hoạch thu thập, rà soát, cập nhật thông tin thị trường lao động của tỉnh giai đoạn 2021-2025. Trong quý II, tỉnh Thái Bình triển khai quy định mới về việc sử dụng, cấp phép đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý người lao động Việt Nam làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; Rà soát, báo cáo tình hình cấp giấy phép lao động cho lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Phối hợp với Ban Quản lý Khu kinh tế và các khu công nghiệp tỉnh hướng dẫn doanh nghiệp trong khu công nghiệp đánh giá nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh Covid-19 tại nơi làm việc và thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh; phối hợp kiểm tra, hướng dẫn thực hiện công tác phòng, chống dịch tại một số doanh nghiệp.
Trong quý II năm 2021, Doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tạo việc làm mới cho 8.100 lao động, trong đó tạo việc làm tại địa phương 5.960 lao động, đi làm việc tại tỉnh ngoài 1.740 lao động và đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 400 lao động; 1.800 người tham gia học nghề (bằng 10,8% so với kế hoạch năm), trong đó trình độ cao đẳng 150 người, trình độ trung cấp nghề là 200 người, sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng là 1.450 người.
Ước 6 tháng đầu năm 2021, các địa phương, doanh nghiệp tạo việc làm mới cho 15.900 lao động (đạt 46,2% kế hoạch năm), trong đó tạo việc làm tại địa phương 11.840 lao động, đi làm việc tại tỉnh ngoài 3.200 lao động và đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 860 lao động.
Trợ cấp xã hội
Thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người cao tuổi tặng quà, chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi trên địa bàn tỉnh Thái Bình, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã hướng dẫn các địa phương tổ chức chúc thọ, mừng thọ cho 36.630 người cao tuổi với tổng kinh phí 16 tỷ đồng nhân dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021.
Thực hiện Chương trình trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, trẻ em tự kỷ và người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2021-2030 trên địa bàn tỉnh, Hội người khuyết tật tỉnh, Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh tổ chức hội nghị tập huấn kỹ năng, phương pháp chăm sóc, phục hồi chức năng cho người khuyết tật cho gần 800 người khuyết tật và thân nhân của người khuyết tật.
Thực hiện chi trả cho đối tượng hưởng chế độ bảo trợ xã hội tại cộng đồng đảm bảo các biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19 theo chỉ đạo của UBND tỉnh. Tổ chức tư vấn nói chuyện chuyên đề về chính sách trợ giúp xã hội gần 1.400 đối tượng bảo trợ xã hội và người dân.
Lĩnh vực người có công
Hướng dẫn giải ngân hỗ trợ đối với 286 hộ gia đình người có công với cách mạng đã được UBND tỉnh phê duyệt danh sách và cấp tạm ứng kinh phí của tỉnh để hỗ trợ cải thiện về nhà ở, kết quả, đã giải ngân hỗ trợ 212 hộ, 63 hộ đang tiếp tục đôn đốc để hỗ trợ, 11 hộ không còn nhu cầu hỗ trợ.
Tiếp nhận và xử lý 494 đơn thư đề nghị, khiếu nại, tố cáo về chính sách người có công, trong đó 320 đơn thư đề nghị (đã giải quyết 250 đơn, còn lại đang tiếp tục giải quyết); 174 đơn khiếu nại, tố cáo (165 đơn khiếu nại, 09 đơn tố cáo), đã giải quyết 168 đơn, còn 06 đơn đang tiếp tục giải quyết.
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Tình hình dịch bệnh
Công tác phòng chống dịch Covid- 19
Ngành Y tế tiếp tục triển khai các hoạt động của cơ quan Thường trực phòng chống dịch Covid-19; phối hợp các sở ban, ngành liên quan bám sát diễn biến tình hình dịch bệnh tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh các hoạt động phòng chống dịch kịp thời, hiệu quả, chủ động tham mưu các văn bản chỉ đạo, kiểm tra giám sát, báo cáo về công tác phòng chống dịch Covid-19 trong tình hình mới; Các phương án ứng phó với các tình huống dịch; Nắm bắt tình hình và tổng hợp báo cáo hàng ngày công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh.
Tình hình dịch bệnh tại tỉnh Thái Bình
- Số bệnh nhân Covid-19 tính từ 01/01/2021 đến 15/6/2021 là 26 bệnh nhân, trong đó đã khỏi 18 bệnh nhân (từ ngày 28/4/2021 là 21 bệnh nhân mới).
- Đã hoàn thành chiến dịch tiêm chủng đợt 1 năm 2021: Tổng số đối tượng tiêm chủng Covid-19 là 13.816 trường hợp đạt 100% kế hoạch.
- Ngày 31/5/2021, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh tiếp nhận 10.810 liều vaccine phòng Covid-19 đợt 2 năm 2021 do Bộ Y tế phân bổ. Trong ngày 15/6/2021 tiêm chủng cho 29 trường hợp. Tổng số đối tượng đã tiêm chủng trong đợt 2 đến nay: 284.
Tình hình phòng chống dịch bệnh khác tại tỉnh:
- Ghi nhận 03 trường hợp mắc sốt xuất huyết lâm sàng (02 trường hợp nội sinh tại xã Văn Cẩm, huyện Hưng Hà và xã Đông Hòa, Thành phố Thái Bình);
- Năm tháng đầu năm đã rà soát phát hiện 73 trường hợp viêm gan, 254 trường hợp mắc hội chứng cảm cúm được phát hiện rải rác; 13 trường hợp tay chân miệng; 04 trường hợp viêm màng não mủ; 14 trường hợp thủy đậu; 01 trường hợp sốt phát ban nghi Sởi; rà soát phát hiện 18 trường hợp viêm gan.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS
Kết quả hoạt động trong 5 tháng đầu năm 2021 như sau: Toàn tỉnh hiện có 2.214 người nghiễm HIV/AIDS còn sống tại 240/260 xã, phường, thị trấn trong đó có 747 phụ nữ chiếm tỷ lệ 33,73% và 33 trẻ em chiếm tỷ lệ 1,49%. Tháng 5, phát hiện 11 người nhiễm HIV mới, 01 người chết do HIV/AIDS; Điều trị ARV cho 1.305 bệnh nhân với 569/2.214 bệnh nhân (đạt tỷ lệ 43,6%) được nhận thuốc từ nguồn BHYT; Tiếp nhận và điều trị bằng thuốc Methadone cho 1.387 người nghiện tại các cơ sở điều trị.
Ngộ độc thực phẩm
Sáu tháng đầu năm 2021 trên địa bàn tỉnh không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm.
Hoạt động giáo dục
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, ngành Giáo dục và Đào tạo đã cho trẻ em, học sinh các cơ sở giáo dục trong tỉnh tạm dừng đến trường từ ngày 06/5/2021, dạy học trực tuyến và hình thức phù hợp khác; từ ngày 24/5/2021 tổ chức cho học sinh lớp 9, lớp 12 đi học trở lại trong điều kiện thực hiện nghiêm các quy định về phòng chống dịch; điều chỉnh lùi thời gian thi tuyển lớp 10 trung học phổ thông Chuyên được lùi từ ngày 27-28/5/2021 sang ngày 05/6-06/6/2021; tuyển sinh lớp 10 trung học phổ thông công lập đại trà lùi từ ngày 08/6-09/6/2021 sang ngày 19-20/6/2021.
UBND tỉnh ban hành Quyết định phê duyệt Danh mục sách giáo khoa lớp 2, lớp 6 sử dụng trong cơ sở giáo dục phổ thông tỉnh Thái Bình năm học 2021-2022; Chỉ thị về việc tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, giáo dục nghề nghiệp tại tỉnh Thái Bình năm 2021; triển khai thực hiện các điều kiện để tổ chức Kỳ thi trên địa bàn tỉnh bảo đảm an toàn, nghiêm túc, chất lượng, đúng quy chế.
Văn hoá - Thể thao
Lĩnh vực văn hóa
Sở Văn hóa thể thao và du lịch triển khai kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Đông Hưng; lập hồ sơ hiện vật cỗ nhang án thời Lê Trung Hưng tại di tích quốc gia đặc biệt Chùa Keo, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia. Triển khai xây dựng Đề án “Bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Thái Bình giai đoạn 2021 - 2025”. Tiếp tục thực hiện Đề tài khoa học “Nghiên cứu, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống văn khắc Hán Nôm trên bia đá tại các di tích lịch sử văn hóa ở huyện Đông Hưng và Kiến Xương tỉnh Thái Bình”.
Lập quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích quốc gia đặc biệt Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần, tỉnh Thái Bình; trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết về cơ chế đặc thù đối với các nghệ sĩ, nghệ nhân có nhiều cống hiến trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Thái Bình. Chuẩn bị hồ sơ Nghệ thuật Chèo đồng bằng sông Hồng trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Tổ chức triển khai xây dựng các dự án tu bổ, tôn tạo di tích: Đình Phương Cáp, Đình An Cố, Đình Hạ Đồng, Đình Lạng, Đền Chòi. Hoàn thành hồ sơ khoa học cho 02 di tích (Khu tưởng niệm 21/10, xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy; Đình Quán, xã Đông Xuân, huyện Đông Hưng) đề nghị xếp hạng cấp Quốc gia. Sáu tháng đầu năm, Bảo tàng tỉnh đã thực hiện hướng dẫn 19 đoàn khách với số lượng 1.000 người và 1.000 lượt khách tham quan tự do.
Xây dựng văn hóa cơ sở và “Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” Phòng Văn hóa và Thông tin huyện, thành phố đã chủ động, tích cực tham mưu Ủy ban nhân dân cung cấp triển khai thực hiện có hiệu quả Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” ở địa phương, các hoạt động được triển khai đa dạng về hình thức và phong phú về nội dung, sáng tạo trong cách làm; chất lượng các danh hiệu văn hóa ngày càng tăng về số lượng và chất lượng.
Lĩnh vực thể thao
Sở Văn hóa thể thao và Du lịch xây dựng Điều lệ tổ chức các giải thể thao trong khuôn khổ Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Thái Bình lần thứ IX; ban hành Kế hoạch tổ chức lễ phát động cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” giai đoạn 2021 - 2030 và Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân; tổ chức các hoạt động kỷ niệm ngày truyền thống Ngành Thể thao Việt Nam 27/3.
Tập huấn đội lặn có khí tài phục vụ công tác phòng chống lụt bão năm 2021. Phối hợp với các đơn vị tổ chức các giải thể thao: Giải Cầu lông ngành Kho bạc Nhà nước; giải thể thao Trung học phổ thông năm học 2020 - 2021 của ngành Giáo Dục và Đào tạo; Hội thao của Tập đoàn Giống cây trồng Thái Bình. Tổ chức lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ, hướng dẫn viên, cộng tác viên môn Bóng chuyền hơi, Bóng chuyền da trong khuôn khổ Đại hội Thể dục Thể thao các cấp tỉnh Thái Bình lần thứ IX.
Tình hình an toàn giao thông
Theo báo cáo của Ban an toàn giao thông từ ngày 15/5/2021 đến ngày 14/6/2021 trên địa bàn tỉnh xảy ra 3 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 3 người chết. Tính từ đầu năm đến 14/6/2021 toàn tỉnh xảy ra 29 vụ tai nạn giao thông, tăng 3 vụ so với cùng kỳ (+11%), làm 30 người chết, tăng 03 người (+11%), làm 10 người bị thương.
Tình hình cháy nổ
Theo số liệu báo cáo từ phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và Cứu nạn cứu hộ, trong tháng 6 năm 2021 trên địa bàn tỉnh Thái Bình xảy ra 02 vụ cháy, nổ: Vụ cháy thứ nhất xảy ra tại chợ Bàng, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy làm 11 gian hàng của 07 hộ kinh doanh bị cháy, gây thiệt hại ban đầu ước tính hơn 2 tỷ đồng, không có thiệt hại về người; Vụ cháy thứ hai xảy ra tại Công ty Cổ phần Thương mại XNK DATEX thành phố Thái Bình, ước tính thiệt hại về tài sản gần 1 tỷ đồng, không có thiệt hại về người.
Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2021 xảy ra 06 vụ cháy (tăng 01 vụ so với cùng kỳ), làm 02 người chết, ước tính thiệt hại về tài sản 5 tỷ đồng.
PHÒNG THỐNG KÊ TỔNG HỢP