Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Nông nghiệp
Trồng trọt
Sản xuất cây lúa vụ xuân:
Theo kết quả điều tra sơ bộ, diện tích gieo cấy lúa vụ Xuân 2018 đạt 78.207 ha, giảm 1,4% so với kế hoạch của tỉnh (79.319 ha) và giảm trên 1,4% so với cùng kỳ năm trước. Đến nay toàn bộ diện tích lúa vụ xuân đang ở giai đoạn đẻ nhánh rộ và phân hóa đòng. Do điều kiện thời tiết thuận lợi cho sâu bệnh phát sinh nên một số diện tích lúa đã bị nhiễm sâu bệnh, đặc biệt là bệnh đạo ôn. Đến ngày 05/4/2018 toàn tỉnh có khoảng 15.227 ha lúa bị nhiễm bệnh đạo ôn, trong đó nhiễm RR-< 5% là 9.760 ha; nhiễm nhẹ từ 5 – 10% là 3.342 ha; nhiễm trung bình từ 10 – 20% là 1.857 ha; nhiễm nặng trên 20% là 314 ha. Ngay từ đầu vụ, các cấp các ngành đã tập trung chỉ đạo quyết liệt các biện pháp phòng chống bệnh lùn sọc đen tuy nhiên đến ngày 05/4 bệnh lùn sọc đen đã xuất hiện rải rác tại một số huyện Thái Thụy, Kiến Xương... dự báo bệnh lùn sọc đen vẫn luôn tiềm ẩn mối nguy hại và có thể bùng phát vào giai đoạn lúa phân hóa đòng đến khi lúa trỗ bông,
Hiện tại các địa phương đang tích cực chỉ đạo các địa phương bám sát đồng ruộng, mở rộng công tác tuyên truyền về tình hình sâu bệnh và biện pháp phòng trừ, chủ động phòng trừ theo đúng hướng dẫn của các ngành chuyên môn.
Gieo trồng cây màu:
Diện tích ngô vụ đông xuân đạt 8.822 ha, giảm 1.468 ha (-14,3%) so với năm trước, giảm chủ yếu do một số diện tích trồng đầu vụ bị ảnh hưởng bời thời tiết không khắc phục được.
Diện tích cây chất bột có củ đạt 2.940 ha, tăng 9,3% so với cùng kỳ.
Diện tích rau, đậu, hoa cây cảnh đạt 32.859 ha, tăng 9,4% trong đó rau các loại đạt 31.071 ha, tăng gần 10,5% so với năm trước.
Chăn nuôi
Trong tháng 4, đàn trâu ước tình tăng trên 0,9%; đàn bọ tăng gần 1,9% so với cùng kỳ năm trước.
Chăn nuôi lợn vẫn đang trong tình trạng khó khăn do giá thịt lợn hơi giảm từ thời điểm sau Tết Nguyên đán, người nuôi không có lãi nên quy mô đàn giảm mạnh. Đàn lợn trong tháng 4 ước tính giảm gần 4,4% so với cùng kỳ. Những ngày gần đây thị trường thịt lợn hơi bắt đầu có xu hướng tăng giá, giá thịt lợn hơi giao động từ 36.000 – 40.000 đồng/kg. Nguyên nhân chủ yếu của việc tăng giá thịt lợn là do tổng đàn giảm mạnh sau một thời gian dài các hộ chăn nuôi lợn thua lỗ. Hiện nguồn thịt lợn cung cấp ra thị trường chủ yếu từ các trang trại hoặc công ty chăn nuôi lớn. Dự báo trong những tháng tiếp theo nếu giá thịt lợn hơi ổn định ở mức xấp xỉ 40.000 đồng/kg và giá thức ăn chăn nuôi không tăng thì đàn lợn sẽ ổn định và tăng trở lại.
Tổng đàn gia cầm tháng 4/2018 tăng trên 3,5% so với cùng kỳ.
Tính đến ngày 15/4/2018 toàn tỉnh không phát sinh ổ dịch cúm gia cầm, tai xanh ở lợn và lở mồm long móng ở gia súc. Các bệnh thông thường trên gia súc, gia cầm xuất hiện rải rác ở một số địa phương. Các địa phương tiếp tục tổ chức tiêm phòng bổ sung vác xin cho đàn gia súc, gia cầm vụ xuân hè 2018.
Lâm nghiệp
Các ngành chức năng tiếp tục chỉ đạo các xã ven biển tăng cường công tác quản lý và bảo vệ rừng ngập mặn ven biển, đồng thời chuẩn bị điều kiện để tiếp tục triển khai kế hoạch trồng mới và trồng bổ sung rừng.
Thủy sản
Khai thác
Hiện nay tình hình thời tiết thuận lợi, ổn định các phương tiện khai thác thường xuyên bám biển để sản xuất phục vụ nhu cầu thị trường. Sản lượng khai thác thủy sản tháng 4/2018 ước tính đạt 6,9 ngàn tấn (+2,2%) so với cùng kỳ. Dự kiến trong những tháng tiếp theo một số tàu thuyền được cải tạo, sửa chữa xong tiếp tục ra khơi đánh bắt với điều kiện thời tiết thuận lợi sẽ lại được một mùa đánh bắt bội thu.
Nuôi trồng
Sản Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 4/2018 ước đạt 10,3 ngàn tấn, tăng 7,1% so với cùng kỳ. Trong đó: cá đạt 2,8 ngàn tấn, tăng 0,8%; tôm đạt gần 0,7 ngàn tấn, giảm trên 2,8%; thủy sản khác đạt 7,4 ngàn tấn, tăng 10% (riêng sản lượng ngao đạt 4,3 ngàn tấn, tăng 1,3 ngàn tấn) so với cùng kỳ.
Tính chung 4 tháng đầu năm, sản lượng thủy sản ước đạt 68,9 ngàn tấn, tăng gần 6,7%% so với cùng kỳ, trong đó nuôi trồng ước đạt 41,2 ngàn tấn (+7,3%), khai thác ước đạt 27,7 ngàn tấn (+5,7%).
Tiến độ gieo trồng cây nông nghiệp đến ngày 19 tháng 04 năm 2018
Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 4/2018 tăng gần 30,8% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 4 tháng đầu năm, IIP tăng trên 20,1%; trong đó: ngành khai khoáng giảm 1%; ngành chế biến, chế tạo tăng gần 9,7%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng hơn 5 lần; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 4,7%.
Trong 4 tháng đầu năm, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng cao so với cùng kỳ như: Amoni Nitorat tăng hơn 2 lần; tôm đông lạnh tăng hơn 2 lần; sứ vệ sinh tăng 2 lần; polyaxteal, polyete (+90,7%)... Bên cạnh đó cũng có một số sản phẩm có tốc độ giảm so với cùng kỳ như: bia đóng lon (-9,7%); thức ăn cho gia súc (-23,5%); thức ăn cho gia cầm (-12,9%).. Hiện nay nhà máy Nhiệt điện Thái Bình, tổ máy số 2 đã đi vào hoạt động và phát điện chính thức trong tháng 4/2018. Cả 2 tổ máy của nhà máy Nhiệt điện Thái Bình đều hoạt động ổn định, liên tục; tổ máy số 1 hoạt động đạt gần 100% công suất thiết kế (200.000 kW/tháng), tổ máy số 2 đang trong giai đoạn chạy thử đạt 65% công suất thiết kế (130.000 kW/tháng).
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tỉnh Thái Bình tháng 4/2018 tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số tồn kho ngành chế biến, chế tạo tháng 4/2018 ước tính tăng hơn 22,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có một số ngành chỉ số tồn kho cao như: sản xuất đồ uống (+97,9%); sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất (+59,1%); sản xuất xe có động cơ tăng hơn 7 lần so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/4/2018 tăng 18,4% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó: Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 2,2%; doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng gần 24,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng hơn 11,7%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong tháng 3/2018 đã cấp 79 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp với số vốn đăng ký đạt 248,7 tỷ đồng. Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động trong tháng: 16 doanh nghiệp; doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 3 doanh nghiệp. Trong đó thu hồi GCN ĐKKD do DN giải thể là 3.
Đầu tư
Tháng 4/2018, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do tỉnh quản lý ước đạt 258,4 tỷ đồng, tăng gần 8,6% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước đạt gần 131 tỷ đồng, tăng 1,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện thực hiện đạt 61,2 tỷ đồng, tăng 22,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã thực hiện hơn 66,3 tỷ đồng, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính 4 tháng đầu năm vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do tỉnh quản lý đạt 881,2 tỷ đồng, tăng trên 8,6 so với cùng kỳ.
Trong tháng 4, tính hình phân bổ nguồn vốn đã có nhiều chuyển biến, nguồn ngân sách cấp huyện thực hiện thi công các công trình trọng điểm đã tăng như dự án đường Kỳ Đồng với tổng vốn 265 tỷ, dự án đường Vành đai phía Nam trên 264 tỷ, dự án đường Vô Hối – Diêm Điền tổng vốn đầu tư 298 tỷ đồng…
Tình hình thực hiện vốn đầu tư tại nhà máy Nhiệt điện 2: đến nay dự án đã hoàn thành được 50% vốn đầu tư và đang trong quá trình hoàn thiện dự án.
Tình hình thực hiện một số dự án:
Dự án cầu qua sông 3/2 trên tuyến đường Kỳ Đồng kéo dài và nạo vét sông 3/2 (doạn từ chợ Cầu Nề đến sông Kiên Giang) thành phố Thái Bình với tổng số vốn đầu tư gần 24 tỷ.
Dự án đền thờ Bác Hồ - Quảng trường Thái Bình tổng số vốn đầu tư 51 tỷ, thực hiện đến tháng 4 đạt 1,5 tỷ đồng.
Dự án tượng đài Bác Hồ với nông dân, mức đầu tư 201 tỷ đồng thực hiện đến tháng 4 ước đạt 25 tỷ đồng.
Dự án xây dựng hạ tầng - quảng trường Thái Bình, kế hoạch vốn hơn 240 tỷ, sơ bộ thực hiện tháng 4 đạt 1,4 tỷ đồng.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/04- 20/04/2018
Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước ước tính 4 tháng năm 2018 đạt trên 5.170tỷ đồng, bằng 37,3% so với dự toán và giảm 22,6% so với cùng kỳ. Trong đó: thu nội địa ước đạt gần 1.609 tỷ đồng, giảm 8,4%; thu thuế xuất nhập khẩu ước đạt trên 627 tỷ đồng, tăng 72,2%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt trên 2.355,5 tỷ, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng chi ngân sách địa phương ước tính 4 tháng năm 2018 đạt trên 3.735 tỷ đồng, tăng 2,5% so với cùng kỳ và bằng 32% so với dự toán; trong đó: chi phát triển kinh tế ước đạt 1.482,8 tỷ đồng, tăng 14,7% so với cùng kỳ và bằng 41,6% so với dự toán; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt trên 2.252 tỷ đồng, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước và bằng 29,8% so với dự toán.
Thương mại, giá cả, vận tải và dịch vụ
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tháng 4/2018 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt hơn 3.897 tỷ đồng tăng hơn 1,8% so với tháng trước và tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Kinh tế Nhà nước có mức tăng tương ứng 1,2% và 11,7%; kinh tế Ngoài nhà nước tăng trưởng lần lượt là 1,87% và 11,5%.
Tháng 4/2018 tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 2.934 tỷ đồng tăng trên 1,8% so với tháng trước và tăng hơn 11,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Kinh tế Nhà nước có mức tăng 3,3% và 17,7%; kinh tế Ngoài nhà nước tăng trưởng lần lượt là 1,8% và 11,1%.
Ước tính tháng 4/2018, doanh thu hoạt động dịch vụ đạt trên 177 tỷ đồng, tăng 11,3% so với cùng kỳ.
Tháng 4/2018 doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước đạt trên 264 tỷ đồng, tăng 4% so với tháng trước và tăng 16% so với cùng kỳ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa 4 tháng đầu năm ước đạt 11.611 tỷ đồng, tăng trên 10% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo loại hình kinh tế: kinh tế nhà nước ước đạt gần 174 tỷ đồng, tăng gần 13,3%; kinh tế ngoài Nhà nước ước đạt trên 11.437 tỷ đồng, tăng 10%. Chia theo nhóm ngành hàng: nhóm hàng lương thực, thực phẩm ước đạt gần 3.627 tỷ đồng (+10,8%); nhóm đồ dùng trang thiết bị gia đình ước đạt hơn 1.450 tỷ đồng (+0,7%); nhóm gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt gần 1.569 tỷ đồng (+15,2%); nhóm xăng dầu ước đạt hơn 1.789 tỷ đồng (+14,7%)...
Ước tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 4 tháng đầu năm đạt 13.377 tỷ đồng, tăng hơn 10,07% so với cùng kỳ. Trong đó: Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 11.611 tỷ đồng tăng trên 10%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành đạt gần 1.022 tỷ đồng, tăng 10,8%; doanh thu dịch vụ khác đạt 743 tỷ đồng tăng 9,7%.
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu:
Trị giá xuất khẩu tháng 4/2018 ước đạt gần 107 triệu USD tăng gần 23,6% so với cùng kỳ. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế nhà nước tăng hơn 50,5%; kinh tế ngoài nhà nước tăng 31,7%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,5% so với cùng kỳ. Trị giá xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ là do một số doanh nghiệp những tháng đầu năm 2017 không xuất khẩu được hàng, đầu năm 2018 một số doanh nghiệp đã ký kết được các đơn hàng với đối tác và xuất khẩu trong thời gian cuối quý I và đầu quý II nên hoạt động xuất khẩu tháng 4 khá mạnh.
Xuất khẩu 4 tháng năm 2018 ước đạt gần 418 triệu USD tăng 17% so cùng kỳ.
Nhập khẩu:
Trị giá nhập khẩu tháng 4/2018 ước đạt gần 113 triệu USD, tăng gần 28,4% so với cùng kỳ; trong đó: kinh tế tư nhân đạt 62,5triệu USD tăng 77,9%; kinh tế có vốn đầu nước ngoài ước đạt 50,1 triệu USD giảm 4,2% so với cùng kỳ.
Giá trị nhập khẩu 4 tháng năm 2018 ước đạt 413,5 triệu USD tăng trên 15,5% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó: thành thần kinh tế tư nhân tăng hơn 21,3%; thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng hơn 9,5% so với cùng kỳ.
Hàng hóa xuất nhập khẩu
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2018 tăng 0,1% so với tháng trước (khu vực thành thị tăng 0,01%; khu vực nông thôn tăng 0,11%); tăng 1,49% so với tháng 12 năm 2017 và tăng 3,07% so với cùng tháng năm trước. 11 nhóm hàng cấu thành CPI đều có chỉ số tăng và tương đương so với tháng trước như nhóm “Giao thông” tăng 1,25%, nhóm “Nhà ở, điện nước, chất đốt” tăng 0,58% tuy nhiên nhóm “hàng ăn và dịch vụ ăn uống” lại giảm 0,41%. Trong tháng 4 có 2 đợt điều chỉnh tăng giá xăng dầu vào ngày 08/4 và 24/4 đã tác động đến chỉ số nhóm “Giao thông”.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 4 tháng năm 2018 tăng 4,15% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có chỉ số tăng cao như: “nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng” tăng 10,12%; “giáo dục” tăng 4,3%; “thuốc và dịch vụ y tế” tăng 34,47%... tuy nhiên một số nhóm hàng chỉ số tiêu dùng lại giảm như: “bưu chính viễn thông” giảm 0,39%...
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng, chỉ số giá đô la Mỹ tháng 04 năm 2018
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách
Tháng 4/2018, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 121 tỷ đồng tăng hơn 2,4% so với tháng trước và tăng 19,1% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt trên 1,6 triệu người tăng 2,4% so với tháng trước và tăng 17,6% so với cùng kỳ; số lượt khách luân chuyển ước đạt gần 195 triệu người.km, tăng 6,6% so với tháng trước, tăng hơn 24,3% so với cùng kỳ.
Doanh thu vận tải hành khách 4 tháng đầu năm ước đạt gần 478 tỷ đồng tăng 12,7%; số lượt khách vận chuyển ước đạt trên 6,6 triệu người tăng 17,5%; số lượt khách luân chuyển ước đạt 736,3 triệu hk.km tăng 15,6% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hóa
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 4/2018 ước đạt 295 tỷ đồng, tăng 3,5% so với tháng trước và tăng hơn 10,7% so với cùng kỳ. Khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 1.644 nghìn tấn tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 5% so với so với cùng kỳ. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt trên 647 triệu tấn.km, tăng 2,8% so với tháng trước và tăng 1,1% so với cùng kỳ.
4 tháng đầu năm, doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.136 tỷ đồng tăng 11,9%; khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 6.734 triệu tấn, tăng 8,2%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 2.393 triệu tấn.km tăng gần 4,4% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hành khách và hàng hoá
Một số tình hình xã hội
Lao động và việc làm:
Tháng 4/2018, Sở Lao động - Thương binh Xã hội tiếp nhận, giới thiệu 04 doanh nghiệp có chức năng về tuyển chọn lao động, đào tạo và cung ứng cho thị trường lao động trong và ngoài nước; cấp giấy phép lao động cho 18 lao động là người nước ngoài đến làm việc tại các doanh nghiệp ở tỉnh (trong đó cấp lại giấy phép cho 11 lao động); xác nhận cho 01 lao động là người nước ngoài không thuộc diện cấp phép. Quyết định trợ cấp cho 255 trường hợp hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Trong tháng, các cơ sở, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tạo việc làm mới cho khoảng 3.200 người (trong đó: việc làm tại địa phương 2.500 người, cung ứng đi làm việc ở tỉnh ngoài 480 người, xuất khẩu lao động 220 người).
Tháng 4/2018, có 2.570 người tham gia học nghề, trong đó: trình độ Cao đẳng là 70 người, trình độ Trung cấp là 350 người, trình độ Sơ cấp và đào tạo dưới 03 tháng là 2.150 người.
Trợ cấp xã hội:
Thực hiện tốt các hoạt động truyền thông vận động đối với sự tham gia của các cấp, các ngành, các tổ chức, đoàn thể, các tổ chức xã hội về trẻ em, lên án các hành vi xâm hại, ngược đãi và bạo lực đối với trẻ em; phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ em, bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng với HIV/AIDS…; tiếp tục duy trì và thực hiện có hiệu quả các mô hình bảo vệ, chăm sóc trẻ em đảm bảo cho mọi trẻ em được phát triển bình thường, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc, trợ giúp.
Lĩnh vực người có công:
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã triển khai thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách đối với người và gia đình có công với cách mạng, cụ thể: Đề nghị giám định do sót vết thương 06 trường hợp; chế độ thân nhân liệt sỹ cho 02 trường hợp; sửa đổi thông tin cá nhân trong hồ sơ người có công cho 06 trường hợp, tiếp nhận giải quyết chế độ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học cho 31 trường hợp, chế độ đối với con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học cho 01 trường hợp; thẩm duyệt 02 hồ sơ đề nghị cấp thẻ Bảo hiểm y tế; giải quyết chế độ trợ cấp một lần mai táng phí và trợ cấp một lần cho thân nhân người có công 02 trường hợp; giải quyết di chuyển hồ sơ người có công đi tỉnh ngoài 19 trường hợp; sao 120 hồ sơ người có công để trả các huyện, thành phố, rút 150 hồ sơ người có công để giải quyết chế độ chính sách và phục vụ công tác thanh tra và công an, cấp 21 thẻ thương, bệnh binh; tra cứu và xác nhận thông tin liệt sĩ cho 18 thân nhân liệt sĩ, ghép 205 hồ sơ mai táng phí; hướng dẫn các huyện, thành phố hoàn thành việc chi trả trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng tháng 4 năm 2018.
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Tình hình dịch bệnh:
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh không phát hiện các trường hợp mắc dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, không có trường hợp tử vong do bệnh truyền nhiễm; ghi nhận một số trường hợp mắc bệnh như sau:
- 06 trường hợp tay chân miệng rải rác ở các huyện, thành phố chủ yếu ở độ 1 và độ 2a; không có tử vong.
Hệ thống y tế dự phòng đã thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả việc tăng cường, đẩy mạnh các hoạt động phòng chống dịch bệnh trên toàn địa bàn; trong đó, tập trung cho công tác giám sát chủ động, phát hiện sớm, xử lý kịp thời các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm gây dịch, đặc biệt là tình trạng mắc bệnh dịch mùa Đông-Xuân, các ổ dịch cũ, các khu vực trọng điểm và đầu mối giao thương; phối hợp tốt trong giám sát dịch chủ động tại các bệnh viện và thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo bệnh truyền nhiễm và giám sát bệnh truyền nhiễm theo quy định của Bộ Y tế.
Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Đài PTTH tỉnh và Báo Thái Bình tăng cường tuyên truyền, khuyến cáo về các biện pháp phòng chống dịch bệnh chung và một số bệnh nguy hiểm có khả năng xâm nhập cao vào cộng đồng.
Tình hình HIV/AIDS:
Công tác tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS cho các đối tượng nguy cơ cao và người lao động xa nhà trở về địa phương trong dịp Tết Nguyên đán Mậu Tuất 2018 được các ngành, đoàn thể và địa phương tích cực triển khai thực hiện.
Đến thời điểm này, ghi nhận 28 ca nhiễm HIV mới (qua giám sát phát hiện 12 ca-ghi danh và qua hệ thống VCT là 12ca-vô danh); lũy tích đến 25/3/2018, tổng số nhiễm HIV/AIDS (mắc và chết) hiện quản lý được là 3.238 phát hiện có người nhiễm HIV là 252/286, 12 người chuyển AIDS và 4có người tử vong do AIDS được báo cáo.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm:
Hoạt động giải quyết thủ tục hành chính, đã thẩm định và cấp mới 26 giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP (tuyến tỉnh cấp 14, tuyến huyện cấp 12); công bố hợp quy 06 sản phẩm, công bố phù hợp quy định ATVSTP 24 sản phẩm; gia hạn 04 sản phẩm công bố hợp quy; cấp 63 giấy xác nhận kiến thức ATTP cho người sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm.
Văn hoá - Thể thao
Lĩnh vực văn hóa
Sở Văn hóa thể thao và Du lịch tiến hành lập hồ sơ khoa học Lễ hội làng Giắng (thôn Thượng Liệt, xã Đông Tân), huyện Đông Hưng đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Tiến hành xây dựng kế hoạch thực hiện việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể tại huyện Vũ Thư và thành phố Thái Bình. Tham mưu thành lập Hội đồng xét tặng danh hiệu “Nghệ sỹ nhân dân”, “Nghệ sỹ ưu tú” tỉnh Thái Bình năm 2018.
Lĩnh vực thể dục, thể thao
Tổ chức thành công giải Việt dã tranh Cúp Báo Thái Bình lần thứ XXIII, kết quả : Nhất huyện Quỳnh Phụ, Nhì huyện Thái Thụy, Ba huyện Hưng Hà; giải Vật tự do tỉnh Thái Bình năm 2018, kết quả: Nhất toàn đoàn huyện Vũ Thư, Nhì toàn đoàn huyện Tiền Hải, Ba toàn đoàn huyện Kiến Xương. Tham mưu Kế hoạch tổ chức Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Thái Bình lần thứ VIII trình UBND tỉnh phê duyệt.
Trung tâm Huấn luyện Thể dục thể thao tổ chức hội nghị phụ huynh năm 2018 ; tổ chức tập huấn và tham gia thi đấu các giải: Việt dã Báo Tiền Phong; Cúp Vật cổ điển tự do toàn quốc; Vô địch bơi lặn bể 25m; Vô địch cúp Whusu toàn quốc; Vô địch điền kinh trẻ Đông Nam Á; Cầu lông quốc tế CIPUTRA đạt 16 huy chương các loại: 05 HCV; 04 HCB; 07 HCĐ.
Tình hình an toàn giao thông:
Theo báo cáo của Ban an toàn giao thông từ ngày 16/3 đến ngày 15/4/2018 trên địa bàn tỉnh xảy ra 04 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 05 người chết và 03 người bị thương. Ngoài ra trong tháng xảy ra 05 vụ va chạm giao thông làm 06 người bị thương nhẹ, thiệt hại ước tính 11,2 triệu đồng./.