Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2018

Thứ năm - 29/11/2018 01:49
picture 026 kinhte
picture 026 kinhte
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2018
 
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Nông nghiệp
Trồng trọt
Đối với cây lúa vụ mùa: Thời tiết vụ mùa năm nay nhìn chung không thuận nắng nóng gay gắt, mưa lớn kéo dài đầu vụ, sâu bệnh phát triển; song với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp các ngành trong toàn tỉnh đến trung tuần tháng 11 toàn bộ diện tích lúa đã được thu hoạch xong và dành được kết quả tốt. Theo đánh giá sơ bộ năng suất lúa vụ mùa năm 2018 bình quân toàn tỉnh đạt trên 59 tạ/ha, tăng 25,0% so với vụ mùa năm 2017; sản lượng ước đạt trên 466 ngàn tấn, tăng 24% so với cùng kỳ. Với kết quả đó, sản lượng lúa chung cả năm 2018 ước đạt 1,03 triệu tấn, tăng trên 80 ngàn tấn so với năm trước. Đây cũng là một trong những lợi thế thuận lợi của ngành trồng trọt để có được sự tăng trưởng cao đóng góp chung vào kết quả sản xuất nông nghiệp của tỉnh trong năm 2018.
          Tình hình gieo trồng cây hàng năm vụ mùa: Diện tích gieo trồng một số cây hoa màu tăng, tuy nhiên một số cây giảm nhẹ so với cùng kỳ: diện tích gieo trồng ngô 2645 ha, đạt 95,6%; đậu tương 953 ha, đạt 91,4%; khoai lang 459 ha, tăng 9,6%; lạc 375 ha, tăng 6,4%; rau đậu, hoa cây cảnh đạt 11.693 ha tăng 12,6% so cùng kỳ năm trước.  Trong vụ thời tiết tương đối thuận lợi nên sản lượng một số loại cây trồng hàng năm nhất là rau màu có năng suất tăng cao hơn so cùng kỳ.
           Về sản xuất vụ Đông 2018-2019:  Chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây vụ đông năm 2018 ở hầu hết các huyện được thực hiện theo hướng mở rộng diện tích những cây dễ trồng, cho thu nhập khá và có thị trường tiêu thụ ổn định; tiếp thu nhóm cây trồng mới mang lại hiệu quả kinh tế cao và tiếp thu giống mới cho năng suất, chất lượng cao để thay thế giống cũ đã thoái hoá. Hiện tại những diện tích cây vụ đông ưa ấm được trồng trên đất lúa trà sớm như bí xanh, bí đỏ, dưa, ớt,… đang phát triển tốt, bà con nông dân đang tích cực tận dụng những ngày nắng ấm để gieo trồng những loại cây rau ngắn ngày như su hào, bắp cải, súp lơ,… để kịp thu hoạch đúng thời vụ. Theo tiến độ sản xuất nông nghiệp, tính đến ngày 15/11/2018 diện tích cây vụ đông đã trồng 31.920 ha, đạt 88,6% kế hoạch đề ra (kế hoạch 36.000 ha), tương đương so với cùng kỳ năm trước. Trong đó diện tích ngô đã trồng 6.868 ha, dưa bí 4.732 ha, khoai tây 3.310 ha, các loại cây rau màu khác 17.010 ha.
Chăn nuôi
Chăn nuôi gia súc:
Tổng đàn trâu bò: Theo kết quả điều tra chăn nuôi thời điểm 01/10/2018 tổng đàn trâu, bò đạt 54,8 ngàn con, tăng 4,1% so với cùng kỳ; trong đó trâu 6,2 ngàn con, tăng 3,2%, bò 48,6 ngàn con, tăng 4,2%. Đặc biệt năm 2018 Công ty TNHH MTV Việt Hùng vẫn tiếp tục nhập bò thịt nuôi và xuất bán với số lượng dự kiến đến hết năm 2018 khoảng 24,5 ngàn con, tăng 2,5 ngàn con so với năm 2017, trọng lượng chênh lệch xuất chuồng ước đạt 2,1 ngàn tấn, tương đương 88,5 tỷ đồng đóng góp vào giá trị sản xuất ngành chăn nuôi.
Trong tháng  tổng đàn trâu, bò vẫn phát triển ổn định ước đạt 53,2 nghìn con, tăng 1,6% so với cùng kỳ, trong đó trâu tăng 0,6%, bò tăng 1,7%. Thị trường tiêu thụ và giá bán ổn định nên sản lượng thịt trâu tháng 11 ước đạt 69 tấn, tăng 1,5%;  bò ước đạt 685 tấn, tăng 3,0%. Tính chung 11 tháng sản lượng thịt trâu ước đạt 0,7 nghìn tấn, tăng 1,7%;  bò ước đạt 7,1 nghìn tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ.
Chăn nuôi lợn: Tổng đàn lợn toàn tỉnh thời điểm 01/10/2018 đạt 1.000,6 nghìn con, tăng 2% so với cùng kỳ. Trong đó, tổng đàn lợn tại hộ gia đình đạt 423 nghìn con, chiếm 42,2%; ở trang trại 126 nghìn con, chiếm 12,5%; ở gia trại 407 nghìn con, chiếm 40,6%  tổng đàn. Quy mô bình quân trang trại đạt 176 con lợn/1 trang trại và 1.190 con gia cầm/1 trang trại. Ở loại hình gia trại lợn đã tăng từ 40 con năm 2017 lên quy mô 45 con bình quân/1 gia trại lợn. Đối với những  hộ nhỏ lẻ đã phát triển chăn nuôi trở lại, năm 2017 bình quân/hộ đạt mức 5 con lợn/hộ, năm 2018 đã tăng đạt mức 5,6 con/hộ.
Ước tính thời điểm tháng 11 tổng đàn lợn đạt 1.000,2 nghìn con, tăng 2% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tháng 11/2018 tăng nhẹ do người nông dân đã có lãi và tiếp tục đầu tư, sản lượng đạt 17,0 nghìn tấn, tăng 0,7%; tính chung 11 tháng sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 186,1 nghìn tấn, tăng hơn 1% so với cùng kỳ.
Chăn nuôi gia cầm:
 Tổng đàn gia cầm hiện có tại thời điểm 01/10/2018 đạt 13,0 triệu con, tăng 2,9% so với cùng kỳ; trong đó gà 9,4 triệu con, tăng 3,3%; đàn vịt, ngan, ngỗng 3,3 triệu con  tăng 1,9%. Quy mô gia trại gia cầm đã tăng đạt mức bình quân từ 1.500 con lên 1.700 con gia cầm/1gia trại gia cầm, đối với những hộ chăn nuôi gia cầm nhỏ lẻ đạt mức bình quân 40 con/hộ. Tuy nhiên số lượng gia cầm tại các hộ nhỏ có xu hướng giảm hoặc chỉ ổn định để phục vụ cho nhu cầu cung cấp thực phẩm cho gia đình, các hộ trang trại, gia trại đầu tư với quy mô lớn đã hình thành vơi quy mô từ 10 nghìn con gia cầm trở lên ở một số huyện như Hưng Hà, Thái Thụy, Vũ Thư…
Ước tính tổng đàn gia cầm tháng 11/2018 đạt 14,3 triệu con, tăng 3,1% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt gia cầm các loại tháng 11 ước đạt 4,5 nghìn tấn, tăng 2,8%. Tính chung 11 tháng năm 2018 sản lượng thịt gia cầm các loại đạt 48,1 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ.
Tình hình dịch bệnh:
Trong tháng tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc ổn định, không xuất hiện bệnh nguy hiểm trên đàn gia súc, gia cầm như dịch cúm gia cầm, LMLM gia súc, bệnh tai xanh trên đàn lợn. Các bệnh thông thường trên đàn gia súc, gia cầm vẫn xảy ra rải rác tại các địa phương trong tỉnh. Trong tháng số con gia súc và gia cầm mắc bệnh, số con chết, xử lý nhìn chung có tăng hơn so với tháng trước. Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền hướng dẫn cho người chăn nuôi về các biện pháp phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm, các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học.
Lâm nghiệp
Trong tháng các dự án trồng rừng phòng hộ tại các huyện ven biển đang tiếp tục khẩn trương thực hiện; tính đến thời điểm hiện tại đã triển khai trồng được 169 ha, tăng 18,1% so với cùng kỳ 2017. Sản lượng gỗ, củi khai thác đang dần có xu hướng giảm do chủ yếu được khai thác từ cây lâm nghiệp trồng phân tán nên sản lượng không đáng kể. Ước tính chung 11 tháng sản lượng gỗ khai thác đạt 2.140m3,  giảm 7,2% so cùng kỳ; sản lượng củi khai thác đạt 6.635 ste, giảm 7,2% so cùng kỳ. Tình hình chăm sóc, bảo vệ rừng được thực hiện tương đối tốt, diện tích rừng được bảo vệ là 4.032 ha, tăng 0,9% so cùng kỳ.
Thủy sản
Về khai thác: Toàn tỉnh hiện có 1.155 tàu, trong đó có 1.030 tàu khai thác với tổng công suất đạt 105,8 nghìn CV, giảm 2,9% so với cùng kỳ về số lượng tàu; song chủ yếu giảm ở các loại tàu có công suất nhỏ từ 50 CV trở xuống, các tàu có công suất lớn đã dần được thay thế  với công suất từ 50 CV – 90 CV tăng 9,5% và tàu có công suất từ 400 CV trở lên tăng 20% so với cùng kỳ.Trong tháng tình hình thời tiết tương đối tốt tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khai thác thủy hải sản của bà con ngư dân. Ước tính tổng sản lượng khai thác thủy sản tháng 11 đạt hơn 6 nghìn tấn tăng 6,9% so với cùng kỳ; trong đó sản lượng khai thác biển đạt 5,6 nghìn tấn tăng 7,8% so cùng kỳ, sản lượng khai thác nội địa đạt 0,4 nghìn tấn  giảm 2,4%; tính chung 11 tháng năm 2018 tổng sản lượng khai thác ước đạt 73,5 nghìn tấn, tăng gần 7,0% so với cùng kỳ.
Về nuôi trồng: Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản tính đến tháng 11 năm 2018 đạt 15.195 ha, tăng 0,3%  so với năm 2017 và đã hình thành 27 vùng nuôi thủy sản.
Hoạt động nuôi trồng, đặc biệt là nuôi ngao, nuôi tôm nước lợ tương đối thuận lợi do thời tiết diễn biến bình thường, độ mặn ổn định giúp tôm phát triển tốt, giá cả ổn định và ở mức cao. Sản lượng nuôi trồng đạt khá, trong đó sản lượng tôm thẻ chân trắng cho năng suất cao hơn so với cùng kỳ năm trước.
Tổng sản lượng nuôi trồng trong tháng 11 ước đạt 14,4 nghìn tấn, tăng  7,3% so với cùng kỳ; trong đó sản lượng cá ước đạt 3,9 nghìn tấn, tăng 1,4%, tôm ước đạt gần 0,5 nghìn tấn, tăng 16,4%; sản lượng thủy sản khác ước đạt 9,9 nghìn tấn, tăng 9,4% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2018 tổng sản lượng ước đạt 135,1 nghìn tấn, tăng 7,9% so với cùng kỳ. Trong đó cá đạt 36,7 nghìn tấn, tăng 1,5%; tôm đạt 2,9 nghìn tấn, tăng 13,8%; ngoài ra với thế mạnh của tỉnh là nuôi ngao bãi triều, sản lượng ngao trong 11 tháng ước đạt 88,4 nghìn tấn tăng 10,3% so với cùng kỳ.
  Mô hình nuôi cá lồng vẫn tiếp tục phát triển tăng cả về quy mô và sản lượng, nhiều mô hình được đầu tư khá lớn về kinh tế cũng như kỹ thuật như tại một số hộ nuôi tại các huyện Quỳnh Phụ, Vũ Thư… Hiện toàn tỉnh có 55 hộ nuôi lồng bè với 530 lồng, thể tích đạt gần 55.155 m3, năng suất thu hoạch ước đạt 3,5 tấn/lồng đã góp phần vào kết quả tăng trưởng và phát triển của ngành thủy sản tỉnh Thái Bình.
  
 
  Tiến độ nông nghiệp đến ngày 15 tháng 11 năm 2018


            Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 11/2018 tăng 6,3% so với tháng trước , tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng   năm 2018, IIP tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2017; trong đó: ngành khai khoáng giảm 2%; ngành chế biến, chế tạo tăng 7,4%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng hơn 2 lần; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải tăng hơn 6,5%.
            Trong 11 tháng năm 2018, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng khá so với cùng kỳ như: polyexter ước đạt trên 20 nghìn tấn  (+70,5%); Tăng mạnh nhất là sản phẩm sứ vệ sinh gắn cố định bằng gốm sứ ước đạt hơn 6 triệu cái tăng hơn 2 lần so với cùng kỳ năm trước ; Bao bì và túi bằng giấy trừ giấy nhãn ước đạt  18.448 nghìn chiếc tăng hơn 2 lần so với cùng kỳ do ( Công ty NHH Thái Hiệp Hưng và Công ty Bao bì Hương Sen mở rộng sản xuất). Tôm đông lạnh ước đạt trên 678 tấn  (+ 22,3%) điện thương phẩm ước đạt 2.475 triệu KW (+21,6%); Thức ăn cho gia cầm ước đạt trên 40 nghìn tấn (+12,4%);  Sản phẩm bia hơi (+1,8%). Bên cạnh cũng có một số sản phẩm giảm mạnh như: Dịch vụ tráng phủ kim loại ... giảm 47,4%; cấu kiện nhà sẵn bằng kim loại giảm 40,4%; Bộ dây đánh lửa và bộ dây khác sử dụng cho xe có động cơ giảm 37% so với cùng kỳ.
         Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tỉnh Thái Bình tháng 11giảm hơn 7,2% so với tháng trước và tăng hơn 13% so với cùng kỳ.
          Chỉ số tồn kho ngành chế biến, chế tạo tính đến tháng 11 tăng hơn 12,1% so với tháng trước và tăng 36,2% so cùng kỳ.
          Chỉ số sử dụng lao động hiện đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/11/2018 tăng hơn 19,7% so với cùng thời điểm năm trước. Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 1,2%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 30,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,5%.
 
  Chỉ số sản xuất công nghiệp
  Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
 
 
 
Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Đến thời điểm hiện tại, đã cấp 704 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp với số vốn đăng ký đạt trên 3.289 tỷ đồng. Xác nhận Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động trong 10 tháng là 112 doanh nghiệp; doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là 81doanh nghiệp. Trong đó thu hồi GCN ĐKKD do DN  giải thể là 80 doanh nghiệp và doanh nghiệp tổ chức lại 01 doanh nghiệp.
 Đầu tư
Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước tháng 11/2018 ước tính đạt hơn 405 tỷ đồng, tăng gần 7% so với tháng trước, tăng hơn 25,5% so với cùng kỳ. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước trên 233 tỷ đồng tăng hơn 8,5% so với tháng trư ớc tăng 36,4% so với cùng kỳ năm trước, vốn ngân sách huyện ước trên 94 tỷ đồng, tăng hơn 5,2% so với tháng trước và tăng +31,1% so với cùng kỳ, vốn ngân sách cấp xã ước đạt trên 78 tỷ đồng, tăng hơn 4,5% so với tháng trước và giảm 2,6% so với cùng kỳ năm 2017.
Ước tính 11 tháng, nguồn vốn ngân sách Nhà nước  ước đạt  2.873 tỷ đồng tăng hơn 2,7% so với cùng kỳ . Trong đó vốn ngân sách nhà nước do tỉnh quản lý đạt trên 1.553 tỷ đồng giảm gần 2% so với cùng kỳ năm trước; Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 11 tháng ước đạt 648,2 tỷ đồng tăng hơn 9,7%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước đạt gần 672 tỷ đồng tăng hơn 8,1% so với cùng kỳ.
Tình hình thực hiện một số dự án:
Trong tháng 11/2018  một số công trình dự án thực hiện vốn ngân sách sau:
Dự án cầu La Tiến nối 2 tỉnh Thái Bình – Hưng Yên đã thực hiện sơ bộ đạt 96 tỷ đồng bằng nguồn trái phiếu chính phủ; Dự án có tổng chiều dài 7,8km, trong đó cầu La Tiến dài hơn 1km, đường dẫn phía Thái Bình dài 5,6km, đường dẫn phía Hưng Yên dài 1,2km. Mặt cắt ngang cầu rộng 12m. Dự án triển khai nhằm tạo thành tuyến đường xuyên suốt và nối liền hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên, kết nối các tuyến đường cao tốc và quốc lộ, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội, nối tuyến đê sông Luộc với quốc lộ 38B và quốc lộ 39. Với tổng mức đầu tư 680 tỷ đông, dự kiến đến tháng 6/2020 sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động.
 Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ ven biển tỉnh Thái Bình được đầu tư xây dựng từ năm 2018-2021 với mục tiêu kết nối giao thông hành lang ven biển Bắc Bộ, mở rộng quỹ đất cho đầu tư sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên biển. Phạm vi đầu tư xây dựng tuyến đường với tổng chiều dài 35,5km, trong đó điềm đầu Km 9 +00, giao với Quốc lộ 37 mới tại Km2+384,1 kết nối với điểm  cuối dự án tuyến đường bộ ven biển thành phố Hải Phòng và 09 km thuộc địa phận Thái Bình); điểm cuối tại Km 44+500, đầu nối với đường đầu cầu vượt sông hồng tại xã Nam Phú huyện Tiền Hải; xây dựng cầu vượt sông hồng dài khoàng 2.195km đầu nối vào tuyến đường bộ ven biển tỉnh Nam Định. Tuyến đường đầu tư xây dựng theo quy mô cấp III đồng bằng; vận tốc thiết kế 80km/h. Tổng mức đầu tư là 3.872 tỷ đồng, trong đó: Vốn ngân sách trung ương 1.100 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác là 1.593 tỷ đồng; vốn nhà đầu tư BOT là 1.289 tỷ đồng.
Dự án công trình đường 216 huyện Hưng Hà (1,7 km) với mức đầu tư 56 tỷ đồng đến nay thực hiện được gần 41 tỷ đồng.
Dự án khu QH dân cư, tái định cư Vũ Đông, vốn đầu tư gần 65 tỷ, dự kiến thực hiện đạt 1,4 tỷ đồng.
Dự án HTKT khu dân cư tiếp giáp khu tái định cư Đồng Lôi, vốn đầu tư thực hiện gần 36 tỷ đồng, dự kiến thực hiện 3,5 tỷ đồng.
Dự án đường trục đến trung tâm huyện Quỳnh Phụ nối từ đường ĐT 396B đến đường ĐH.72, vốn đầu tư hơn 255 tỷ đồng, dự kiến thực hiện hơn 10 tỷ đồng.
Dự án đường vành đai phía Nam nút giao xã Vũ Đông đến nút giao QL10 Đông Mỹ  tổng vốn đầu tư hơn 302 tỷ đồng, dự kiến thực hiện đạt 1,5 tỷ đồng.
Dự án nâng cấp đê, kè và đường cứu hộ, cứu nạn đê hữu Sông Trà Lý, tổng vốn đầu tư hơn 114 tỷ, dự kiến thực hiện đạt 1,8 tỷ đồng.
Dự án đường vành đai phía Nam nút giao xã Vũ Đông đến cọc CS51, tổng vốn đầu tư hơn 264 tỷ đồng, dự kiến thực hiện đạt 900 triệu đồng.
 
  Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
  Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/11- 20/11/2018
 
 Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước ước tính 11 tháng 2018 đạt trên 15.371 tỷ đồng, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nội địa ước đạt trên 5.589 tỷ đồng, giảm 0,6%; thu thuế xuất nhập khẩu ước đạt gần 1.121 tỷ đồng, giảm 7%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt 5.911 tỷ đồng.
Tổng chi ngân sách địa phương thực hiện 11 tháng năm 2018 ước đạt trên 10.341 tỷ đồng, tăng 10,9% so với cùng kỳ; trong đó: chi phát triển kinh tế ước đạt trên 4.140 tỷ đồng tăng 26,5%; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt gần 5.828 tỷ đồng, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước...
Thương mại, giá cả, vận tải và dịch vụ
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tháng 11/2018 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 3.510 tỷ đồng, tăng gần 1% so với tháng trước và  tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Kinh tế Nhà nước ước đạt 58 tỷ đồng tăng 0.2% so với tháng trước và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước; kinh tế Ngoài nhà nước ước đạt 3.451 tỷ đồng tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 1,5 tỷ đồng bằng tháng trước và tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ngành hàng: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 3.059,7 tỷ đồng tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 14,9% so với cùng kỳ; doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành ước đạt 260,5 tỷ đồng giảm 0,08% so với tháng trước và tăng 12,2% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 190,3 tỷ đồng giảm 0,25% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ. Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 3.059,7 tỷ đồng tăng 1,1% so với tháng trước  Chia theo nhóm ngành hàng bán lẻ  thì ngành hàng tăng so với tháng trước như: Nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình ước đạt 400 tỷ đồng (+2,7%); nhóm hàng may mặc ước đạt 124 tỷ đồng (+2,6%); nhóm gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 429 tỷ đồng (+2,38%); nhóm ô tô các loại ước đạt 46 tỷ đồng (+1,4%); nhóm phương tiện đi lại ước đạt 197 tỷ đồng (+1%)... Bên cạnh đó nhóm ngành hàng giảm như: nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm  ước đạt 45 tỷ đồng (-0,5%); nhóm sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác ước đạt 48 tỷ đồng (-2,5%).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 11 tháng năm 2018 ước đạt                        36.798  tỷ đồng, tăng hơn 10,7% so với cùng kỳ.  Trong đó: Kinh tế nhà nước ước đạt 630 tỷ đồng tăng gần 15%; kinh tế  ngoài nhà nước ước đạt 36.151 tỷ đồng tăng 10,7%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 15,9 tỷ đồng tăng 8,1% so với cùng kỳ.
Theo ngành hàng: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 31.942 tỷ đồng, tăng 10,7%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành đạt 2.822 tỷ đồng, tăng 11,3%; doanh thu dịch vụ khác đạt trên 2.033 tỷ đồng tăng 10,4% so với cùng kỳ.
Doanh thu bán lẻ  hàng hóa 11 tháng năm 2018 ước đạt 31.942 tỷ đồng, tăng                              10,7% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo loại hình kinh tế: kinh tế nhà nước ước đạt hơn 497 tỷ đồng, tăng gần 15,6%; kinh tế ngoài Nhà nước ước đạt 31.445 tỷ đồng, tăng 10,7%. Chia theo nhóm ngành hàng, các ngành hàng có tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước như: Nhóm xăng dầu ước đạt trên 5.010 tỷ đồng (+24,5%); nhóm gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 4.455 tỷ đồng (+17,6%); nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục ước đạt  293 tỷ đồng (+15,3%); nhóm đá quý, kim loại và sản phẩm ước đạt 496 tỷ đồng (+13,5%);  nhóm hàng may mặc ước đạt 1.430tỷ đồng (+13,3%); nhóm hàng lương thực, thực phẩm ước đạt 9.998 tỷ đồng (+12,3%). Bên cạnh đó  nhóm ngành hàng giảm như: nhóm ngành hàng nhóm đồ dùng trang thiết bị gia đình ước đạt 4.081 tỷ đồng (-0,8%).
Các nhóm ngành hàng tăng cao so với cùng kỳ do một số nguyên nhân sau: Từ tháng 4 đến tháng 7 giá thịt lợn liên tục tăng sau một thời gian dài trượt giá đã đẩy giá thịt bán lẻ từ 65.000 đồng/kg lên đến 95.000 đồng/kg; Giá vật liệu xây dựng như cát đá, sắt thép, xi măng liên tục tăng giá trong các tháng bên cạnh đó việc mở rộng khu dân cư, khu đô thị mới, xã nông thôn mới đã gia tăng xây dựng đồng nghĩa với tăng sức mua; Giá xăng dầu, gas trong nước biến động nhiều do sự tác động của giá xăng dầu thế giới liên tục có sự điều chỉnh tăng giá trong các tháng. Mức thu nhập của người dân cải thiện do một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh nhất là những doanh nghiệp dệt may nắm bắt được tâm lý người dân do việc đi lại không thuận tiện đã đầu tư và phát triển nhà máy sản xuất ngay tại địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tăng thu nhập, mức sống tăng, nhu cầu tiêu dùng tăng. Nắm bắt được xu thế, thời gian qua nhiều doanh nghiệp đã nhanh chóng tập trung đầu tư phát triển mô hình siêu thị mini và các cửa hàng tiện ích nhỏ. Số lượng các siêu thị mini và cửa hàng tiện ích tăng rất nhanh, tạo ra sức cạnh tranh sôi động trên thị trường bán lẻ trong tỉnh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của dân cư.
 
  Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

 Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu:
Tháng 11/2018, trị giá xuất khẩu ước đạt 155,8 triệu USD, tăng 3% so với tháng trước và tăng gần 30 % so với cùng kỳ. Giá trị xuất khẩu tháng 11 tăng cao so với cùng kỳ do giá trị xuất khẩu hàng dệt may, hàng sợi tăng. Hiện nay doanh nghiệp tư nhân đang có nhiều thuận lợi trong tháng có từ 2 đến 3 doanh nghiệp mới tham gia xuất khẩu mà mặt hàng chủ yếu là hàng dệt may. Phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân trị giá xuất khẩu ước đạt 84,3 triệu USD, tăng 4,9% so với tháng trước và tăng 60,32% so với cùng kỳ năm trước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 71,4 triệu USD, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu tháng 11 tăng so với tháng trước như sau: Sản phẩm xơ, sợi dệt các loại (22,5%); sản phẩm mây, tre, cói và thảm (+8,4%); sản phẩm gỗ (+6%) sản phẩm từ sắt thép (+3,97%);... Bên cạnh đó còn có mặt hàng giảm: Hàng thủy sản (-11%); sản phẩm gốm, sứ (-1,1%).
Trị giá xuất khẩu 11 tháng năm 2018 ước đạt 1.385 triệu USD tăng 9,8% so với cùng kỳ. Theo loại hình kinh tế: kinh tế nhà nước ước đạt 2,5 triệu USD giảm 53,7%, kinh tế tư nhân ước đạt 767 triệu USD tăng 17,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 616 triệu USD tăng 2,2%. Xuất khẩu 11 tháng tăng chủ yếu ở các mặt hàng như: sản phẩm gốm, sứ (+48,5);  xơ, sợi dệt các loại (+25,3%); Bên cạnh đó còn có một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm trước như: Giấy và các sản phẩm từ giấy (-14,7%); gỗ (-11%); sắt thép (-8,1%).
Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu tháng 11/2018 ước đạt 138,7 triệu USD; tăng 9,4% so với tháng trước và tăng 1,09% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị nhập khẩu tháng 11 tăng cao so với tháng 10 do lượng nhập khẩu nguyên liệu về để sản xuất cao. Phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân trị giá nhập khẩu ước đạt 75,1 triệu USD tăng 4,8% so với tháng trước và giảm 10,6% so với cùng kỳ; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 63,5 triệu USD tăng 15,4% so với tháng trước và tăng 20% so với cùng kỳ năm trước.
Trị giá nhập khẩu 11 tháng năm 2018 ước đạt hơn 1.269,6 triệu USD tăng hơn 13,3% so với cùng kỳ. Trong đó: loại hình kinh tế Nhà nước ước đạt 2,4 triệu USD, giảm 42,6%; kinh tế tư nhân ước đạt 674 triệu USD, tăng 16,2%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 592,8 triệu USD, tăng 10,6%. Một số mặt hàng có giá trị nhập khẩu tăng so với cùng kỳ như: Chất dẻo nguyên liệu tăng 2,5 lần; máy móc, thiết bị, phụ tùng khác tăng hơn 2,2 lần; hàng thủy sản (+ 99%); phế liệu sắt thép (+80,8%); nguyên phụ liệu dệt may (+11,1%), vải các loại (+6%)… Bên cạnh đó còn các mặt hàng nhập khẩu giảm mạnh như: sắt thép (-21,9%);..
 
  Hàng hóa xuất, nhập khẩu

 Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11/2018 tăng 1,04% so với tháng trước (khu vực thành thị tăng 3,41%; khu vực nông thôn tăng 0,73%); tăng 4,88% so với tháng 12 năm 2017 và tăng 5,02% so với cùng tháng năm trước. Nhóm hàng có chỉ số tăng so với tháng trước như: nhóm “nhà ở, điện nước, chất đốt” tăng 6,46%; bên cạnh đó các nhóm hàng có chỉ số giảm như: nhóm “Giao thông” giảm 2%, “hàng ăn và dịch vụ ăn uống” giảm 0,83%.... Một số nguyên nhân tác động đến chỉ số giá tháng 10 tăng so với tháng trước như: trong tháng 11 có 2 đợt điều chỉnh giá xăng vào ngày 07/11 và 22/12 giá xăng A95 giảm 2.230 đồng/lít, xăng E5 giảm 2.060 đồng/lít, dầu diezen giảm 980 đồng/lít, giá gas  trong tháng giảm 28.000 đồng/bình đã tác động đến chỉ số giá nhóm “Giao thông” và nhóm “nhà ở, điện nước, chất đốt”.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 11 tháng năm 2018 tăng 4,44% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có chỉ số tăng cao như: “hàng ăn và dịch vụ ăn uống” tăng 3,47%; “nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng” tăng 9,65%; “giáo dục” tăng 4,8%; “thuốc và dịch vụ y tế” tăng 8,04%... tuy nhiên một số nhóm hàng chỉ số tiêu dùng lại giảm như: “Bưu chính viễn thông” giảm 0,28%...
 
  Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng, chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11 năm 2018
 
Vận tải và dịch vụ hỗ trợ
Vận tải hành khách
Tháng 11/2018, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 127,4 tỷ đồng tăng 1,4% so với tháng trước  và tăng 18,1% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt hơn 1,5 triệu người tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 5,9% so với cùng kỳ; số lượt khách luân chuyển ước đạt 170,9 triệu người.km, tăng 1,1% so với tháng và so với cùng kỳ năm trước tăng 7,7%.
Doanh thu vận tải hành khách 11 tháng năm 2018 ước đạt hơn 1.337,1 tỷ đồng tăng hơn 14,5% so với cùng kỳ năm trước; số lượt khách vận chuyển ước đạt 17,7 triệu người tăng 14,3% so với cùng kỳ; số lượt khách luân chuyển ước đạt trên 2.035,3 triệu lượt.km tăng 18,6% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hoá
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 11/2018 ước đạt 333,4 tỷ đồng, tăng hơn 1,8% so với tháng trước và tăng gần 12% so với cùng kỳ năm 2017. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 2.014,3 nghìn tấn, tăng 4,5% so với tháng trước và tăng gần 24% so với cùng kỳ năm trước. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt hơn 851,5 triệu tấn.km, tăng gần 6% so với tháng trước, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu vận tải hàng hoá 11 tháng năm 2018 ước đạt 3.330,8 tỷ đồng tăng 11,7% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt gần 19,7 triệu tấn, tăng 10,9%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 7.747 triệu tấn.km tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải
Doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 11 năm 2018 ước đạt 3,5 tỷ tăng 0,7% so với tháng trước và giảm 4,9% so với cùng kỳ. Ước 11 tháng doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 37,3 tỷ đồng giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước.  
 
  Doanh thu hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ
 
Một số tình hình xã hội
Lao động và việc làm, trợ cấp xã hội và lĩnh vực người có công
Trong tháng, toàn tỉnh có 940 người có việc làm mới (trong đó việc làm tại địa phương 530 người, cung ứng đi làm việc ở tỉnh ngoài 360 người, xuất khẩu lao động cho 50 người) nâng số tổng lao động được tạo việc làm mới trong năm là 32.140 người (đạt 97,4% kế hoạch năm).
Trong tháng, toàn tỉnh đã tuyển sinh mới 4.150 người tham gia học nghề, trong đó trình độ cao đẳng 560 người, trung cấp 670 người, trình độ Sơ cấp, dưới 03 tháng 2.920 người.
Theo tổng hợp kết quả sơ bộ năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo là 3,51% (giảm 0,5% so với năm 2017), tỷ lệ hộ cận nghèo là 3,19% (giảm 0,22% so với năm 2017).
Toàn tỉnh hiện có 02 trung tâm đang quản lý 293 người cai nghiện ma túy. Trong đó Trung tâm chữa bệnh – Giáo dục – Lao động Xã hội thành phố hiện đang quản lý 95 người nghiện ma túy: 92 đối tượng bắt buộc, 03 đối tượng tự nguyện; Trung tâm Cai nghiện ma túy và chăm sóc đối tượng xã hội tỉnh đang quản lý 198 học viên cai nghiện ma túy bắt buộc.
Các đơn vị chức năng tiếp tục triển khai kịp thời, đầy đủ các chế độ chính sách cho người và gia đình người có công với cách mạng. Trong tháng 11/2018, triển khai thực hiện sửa thông tin cá nhân trong hồ sơ đối với 13 trường hợp, thương binh đề nghị giám định do sót vết thương 03 trường hợp, giải quyết chế độ cho thân nhân liệt sỹ 06 trường hợp, bổ sung tình hình nhân thân trong hồ sơ liệt sỹ cho 03 trường hợp. Tiếp nhận giải quyết chế độ đối với con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đối với 03 trường hợp. Giải quyết chế độ đối với 07 trường hợp người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Thẩm duyệt hồ sơ đề nghị cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 03 lượt thủ tục; 08 thân nhân người có công được hưởng chế độ tuất hàng tháng; giải quyết chế độ trợ cấp 01 lần tiền mai táng phí và trợ cấp 1 lần cho 06 thân nhân người có công. Thực hiện di chuyển hồ sơ người có công đi tỉnh ngoài cho 20 trường hợp. Sao 90 hồ sơ người có công trả các huyện, thành phố, rút 175 hồ sơ giải quyết chính sách và phục vụ công tác thanh tra, cấp 21 thẻ thương, bệnh binh; tra cứu và xác nhận thông tin liệt sỹ cho 45 thân nhân liệt sỹ, ghép 205 hồ sơ mai táng phí.
 Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm        
            Tình hình dịch bệnh
 Trong tháng, trên địa bàn tỉnh không phát hiện các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như Cúm A/H5N1, H7N9, Viêm não virus, bệnh dại, bệnh tả, không có tử vong do dịch; Qua giám sát ghi nhận một số trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm như: 21 trường hợp mắc Sốt xuất huyết; 02 trường hợp sốt phát ban nghi sởi và 65 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (độ 1 và 2A); 
Các đơn vị y tế triển khai thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Cục Quản lý Khám chữa bệnh - Bộ Y tế tại Công văn số 1194/KCB-NV ngày 02/10/2018 về việc tăng cường công tác điều trị bệnh tay chân miệng, Công văn số 1242/KCB-NV ngày 09/10/2018 về việc tăng cường trong công tác khám, phân loại, điều trị bệnh sởi, tay chân miệng và sốt xuất huyết Dengue nhằm chống quá tải, giảm lây nhiễm chéo và giảm tử vong. Tăng cường củng cố, chỉ đạo hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống dịch; tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá, điều phối thường xuyên các hoạt động phòng, chống dịch, không để dịch bùng phát, lan rộng, kéo dài;
Tình hình HIV-AIDS:
 Sở Y tế Tiếp tục phối hợp cùng Bảo hiểm xã hội tỉnh, các phòng khám ngoại trú người nhiễm HIV triển khai hoạt động cấp phát thẻ BHYT tháng 11 năm 2018;
Tổ chức tiếp nhận và điều trị Methadone cho 1.276 người nghiện ma túy tại tất cả các cơ sở điều trị (Trung tâm PC HIV/AIDS: 176; Thành phố: 261; Đông Hưng: 107; Vũ Thư:83; Quỳnh Phụ: 167; Hưng Hà: 138; Tiền Hải: 148; Kiến Xương: 82; Thái Thụy: 114); điều trị ARV cho 1.209 bệnh nhân, tư vấn cho 03 trường hợp phơi nhiễm HIV, cấp thuốc phơi nhiễm cho 01 trường hợp, kê đơn thuốc điều trị cho 02 trường hợp phơi nhiễm;
Tính đến ngày 25/10/2018, toàn tỉnh hiện đang quản lý 3.344 người nhiễm HIV/AIDS; 866 người bệnh là phụ nữ (25,9%); số bệnh nhân AIDS hiện còn sống là 1.458 người; riêng trong tháng 10/2018 đã phát hiện thêm 08 ca nhiễm HIV mới, 05 bệnh nhân chuyển AIDS, 01 trường hợp nào tử vong do AIDS. Số xã/phường phát hiện có người nhiễm HIV: 252/286       
Văn hoá - Thể thao
 Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo các phòng ban, đơn vị phụ thuộc. Phòng văn hóa thông tin, Trung tâm Văn hóa-Thể thao cá huyện, thành phố tuyên truyền, vận động nhân dân tổ chức các hoạt động trong các dịp lễ tết, triển khai các hoạt động thông tin tuyên truyền phục vụ các nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ kỷ niệm, tổ chức  thành công  lễ . Thành lập đoàn nghệ thuật quần chúng và nâng cao nghiệp vụ . Tổ chức giao lưu Câu lạc bộ thơ nhân ngày Thơ Việt Nam. Phối hợp cá ngành, dơn vị  trong tỉnh tổ chức các hoạt động nghệ thuật quần chúng và nâng cao nghiệp vụ.
Tổ chức thành công  các giải: Vô địch võ cổ truyền các câu lạc bộ; vật tự do; Việt dã tranh cúp Báo Thái Bình; Cờ tướng, bóng đá Nhi đồng,bóng đá công nhân lao động các khu công nghiệp, Quần vợt tranh cúp hữu nghị lần thứ VII – Đại hội thể thao tỉnh Thái Bình lần thứ VIII năm 2018.
Tình hình cháy nổ
Tháng 11 năm 2018, tỉnh Thái Bình đã xảy ra 03 vụ cháy, thiệt hại về tài sản ước tính 100 triệu đồng. Không có thiệt hại về người./.
An toàn giao thông
Theo báo cáo của Ban an toàn giao thông từ ngày 16/10 đến ngày 15/11/2018 trên địa bàn  tỉnh xảy ra 11 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 7 người chết và 5 người bị thương./.
 
 
 
 

Tổng số điểm của bài viết là: 3 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 3 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây