Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Nông nghiệp
Trồng trọt
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông Xuân đạt 129.039 ha, tăng 280 ha (+0,2%) so với vụ Đông Xuân năm 2017, trong đó: diện tích vụ đông đạt 36.351 ha, tăng 699 ha (+1,9%); diện tích vụ Xuân đạt 92.688 ha, giảm 418 ha (-0,4%) so với năm trước.
Sản xuất cây lúa vụ xuân:
Cơ cấu giống lúa: giống lúa dài ngày có diện tích đạt 3.367ha, chiếm 4,3%; các giống lúa ngắn ngày có diện tích đạt 74.853 ha, chiếm 95,7% tổng diện tích; cơ cấu các giống lúa chất lượng gạo ngon đạt 23.622ha, chiếm 30,2% tổng diện tích lúa xuân; các giống lúa thuần có năng suất cao gồm: CN36, Q5, BC15, TB45, TB-1, TB225... chiếm 69,8%.
Thời tiết vụ Xuân năm nay nghiêng về lạnh, hạn khô, dự báo sẽ có nhiều khó khăn, hệ lụy về sâu bệnh phát sinh nhiều nhất là bệnh đạo ôn và rầy, đặc biệt nguồn rầy mang virus bệnh lùn sọc đen tiềm ẩn từ vụ mùa qua vụ đông trên cỏ lồng vực, lúa chết, ngô... có thể diễn biến phức tạp khó lường. Trong tháng 4/2018 thời tiết mưa ẩm thuận lợi cho sâu bệnh phát sinh nên một số diện tích đã bị nhiễm sâu bệnh, đặc biệt là bệnh đạo ôn. Toàn tỉnh có trên 15 nghìn ha lúa bị nhiễm bệnh đạo ôn tuy nhiên với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp đã khắc phục kịp thời, toàn bộ lúa xuân vẫn đang sinh trưởng và phát triển tốt.
Hiện tại điều kiện thời tiết cũng tương đối thuận lợi, toàn bộ diện tích lúa vụ xuân của tỉnh đang ở giai đoạn đứng cái, làm đòng, chuẩn bị trỗ. Theo báo cáo ước tính của các địa phương, kết hợp với việc kiểm tra, đánh giá của Cục Thống kê, ước tính năng suất lúa xuân năm 2018 tỉnh Thái Bình đạt 71,68 tạ/ha.
Gieo trồng cây màu:
Diện tích ngô vụ đông xuân đạt 8.822 ha, giảm 1.468 ha (-14,3%) so với năm trước, giảm chủ yếu do một số diện tích trồng đầu vụ bị ảnh hưởng bời thời tiết không khắc phục được.
Diện tích cây chất bột có củ đạt 2.940 ha, tăng 9,3% so với cùng kỳ.
Diện tích rau, đậu, hoa cây cảnh đạt 32.859 ha, tăng 9,4% trong đó rau các loại đạt 31.071 ha, tăng gần 10,5% so với năm trước.
Theo tiến độ sản xuất nông nghiệp tính đến 17/5/2018, diện tích lúa xuân đã trỗ đạt 57.500 ha, chiếm trên 72,5% diện tích lúa xuân đã gieo cấy; diện tích cây màu xuân đã thu hoạch 12.957ha, chiếm 91,3% diện tích cây màu đã trồng và chủ yếu là các loại rau
Chăn nuôi
Tại thời điểm 01/4/2018 tổng đàn trâu, bò toàn tỉnh đạt 52.679 con tăng 8,9% so với cùng kỳ; trong đó đàn bò đạt 46.771 con (+9,5%).
Chăn nuôi lợn vẫn đang trong tình trạng khó khăn do giá thịt lợn hơi trong những ngày gần đây có tăng song không ổn định, người nuôi vẫn đang cầm chừng trong việc tái đàn. Tổng đàn lợn trong tỉnh tại thời điểm 01/4/2018 có 968,1 nghìn con giảm gần 6% so với cùng kỳ 01/4/2017 và giảm 1,3% so với kỳ 01/10/2017. Sau nhiều tháng giá lợn ở mức thấp, những ngày gần đây thị trường thịt lợn bắt đầu có xu hướng tăng giá, tại Thái Bình giá lợn hơi dao động trung bình từ 38.000 đồng/kg đến 40.000đồng/kg, có những ngày giá lên trên 45.000 đồng/kg nhưng bà con cũng không còn lợn để bán. Nguyên nhân chủ yếu khiến giá lợn hơi hiện nay tăng là do tổng đàn giảm mạnh; vì ảnh hưởng nặng thời gian trước chăn nuôi thua lỗ kéo dài, nhiều hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, gia trại và một số trang trại tư nhân đã phải bỏ chuồng, giảm đàn. Trong tháng tiếp theo, nếu giá thịt lợn hơi ổn định như thời điểm hiện tại và giá thức ăn chăn nuôi ổn định thì dự kiến số lượng đàn lợn sẽ tăng dần trở lại.
Tình hình chăn nuôi gia cầm ổn định do dịch bệnh được kiểm soát, giá bán ổn định. Đàn gia cầm tại thời điểm 01/4/2018 đạt 12,37 triệu con, tăng gần 5,6% so với cùng kỳ. Tính đến ngày 15/5/2018 tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm tương đối ổn định, không xảy ra các dịch bệnh nguy hiểm trên động vật nuôi. Các bệnh thông thường khác xảy ra rải rác trên đàn gia súc, gia cầm ở một số địa phương nhưng vẫn ở quy mô nhỏ lẻ, phân tán.
Lâm nghiệp
Trong những tháng tới, tỉnh tiếp tục chỉ đạo các xã ven biển tăng cường công tác quản lý và bảo vệ rừng ngập mặn ven biển, đồng thời chuẩn bị các điều kiện để triển khai trồng mới và trồng bổ sung rừng đạt kết quả tốt.
Thủy sản
Khai thác
Diễn biến thời tiết tương đối thuận lợi, ổn định nên các phương tiện khai thác biển ổn định thường xuyên bám biển đạt sản lượng khai thác thủy sản tháng 5/2018 ước tính đạt hơn 7 ngàn tấn, tăng 6,9% so với cùng kỳ. Dự kiến trong những tháng tiếp theo nếu thời tiết tiếp tục ủng hộ, một số tàu thuyền được cải tạo, sửa chữa xong tiếp tục ra khơi đánh bắt, hy vọng bà con ngư dân sẽ lại được mùa và trúng giá.
Nuôi trồng
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 5/2018 ước đạt 10,3 ngàn tấn, tăng gần 8,3% so với cùng kỳ. Trong đó: cá đạt 2,8 ngàn tấn, tăng 2,8%; tôm đạt gần 0,7 ngàn tấn, tăng 8,4%; thủy sản khác đạt 7,4 ngàn tấn, tăng 10,4% (riêng sản lượng ngao đạt 4,1 ngàn tấn, tăng 0,5 ngàn tấn) so với cùng kỳ.
Tính chung 5 tháng năm 2018, sản lượng thủy sản ước đạt 86,3 ngàn tấn, tăng trên 6,8% so với cùng kỳ, trong đó nuôi trồng ước đạt 51,5 ngàn tấn (+7,5%), khai thác ước đạt 34,7 ngàn tấn (+5,9%).
Tiến độ gieo trồng cây nông nghiệp đến ngày 15 tháng 05 năm 2018
Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 5/2018 giảm 4,5% so với tháng 4/2018 và tăng 13% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 5 tháng năm 2018, IIP tăng trên 25,5%; trong đó: ngành khai khoáng giảm 1%; ngành chế biến, chế tạo tăng gần 4%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng hơn 8 lần; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 2,5%.
Trong 5 tháng năm 2018, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng cao so với cùng kỳ như: Amoni Nitorat tăng hơn 47%; tôm đông lạnh tăng hơn 2 lần; sứ vệ sinh tăng 2 lần; polyaxteal, polyete (+81,8%)... Bên cạnh đó cũng có một số sản phẩm có tốc độ giảm so với cùng kỳ như: bia đóng lon (- 19%); thức ăn cho gia súc (-19,9%); thức ăn cho gia cầm (-14,1%)..
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tỉnh Thái Bình đến tháng 5/2018 tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số tồn kho ngành chế biến, chế tạo tháng 5/2018 ước tính tăng hơn 22,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có một số ngành chỉ số tồn kho cao như: sản xuất đồ uống (+41,8%); sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất (+56,2%); sản xuất xe có động cơ tăng hơn 6 lần so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/5/2018 tăng 20,2% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó: Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,7%; doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 28%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng hơn 13,4%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong tháng 5 năm 2018 đã cấp 81 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp với số vốn đăng ký đạt trên 353 tỷ đồng. Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động trong tháng l à : 09 doanh nghiệp; doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 03 doanh nghiệp, trong đó thu hồi GCN ĐKKD do DN giải thể là 03 doanh nghiệp .
Đầu tư
Tháng 5/2018, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do tỉnh quản lý ước đạt 264 tỷ đồng, tăng hơn 3% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước đạt hơn 137 tỷ đồng, giảm 3%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện thực hiện đạt gần 61 tỷ đồng, tăng 18%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã thực hiện hơn 66 tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính 5 tháng năm 2018 vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do tỉnh quản lý đạt trên 1.135 tỷ đồng, tăng 6,3% so với cùng kỳ.
Sơ bộ 5 tháng đầu năm, dự án nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 đã đẩy nhanh tiến độ thi công, ước thực hiện đạt 2.500 tỷ đồng, dự kiến 6 tháng cuối năm thực hiện 3.000 tỷ đồng. Tiến độ thi công nhà máy chậm do còn gặp nhiều khó khăn như: năng lực tài chính kém, kinh nghiệp quản lý, thi công của nhà thấu yếu làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thi công. Tính đến nay dự án đạt gần 82% tổng giá trị công trình, tương ứng thực hiện 34.299 tỷ đồng.
Tình hình thực hiện một số dự án:
Dự án nâng cấp đường 456, tổng vốn đầu tư hơn 298 tỷ, ước thực hiện tháng 5 đạt hơn 9 tỷ đồng.
Dự án xây dựng khẩn cấp cầu Đồng lạc qua sông Tiên Hưng huyện Hưng Hà, tổng vốn đầu tư hơn 37 tỷ đồng, ước thực hiện tháng 5 đạt 5,5 tỷ đồng.
Dự án Thảm bê tông nhựa đường ĐH 76 huyện Quỳnh Phụ, tổng số vốn đầu tư hơn 52 tỷ, ước thực hiện tháng 5 đạt 4,2 tỷ đồng.
Dự án đường ĐH 05 xã Hồng Lý huyện Vũ Thư, tổng vốn đầu tư hơn 44 tỷ ước thực hiện tháng 5 đạt 3 tỷ đồng.
Dự án trường THCS Phúc Khánh thành phố Thái Bình, tổng vốn đầu tư gần 13 tỷ đồng, ước thực hiện tháng 5 đạt 2 tỷ đồng.
Dự án nâng cấp đường cứu hộ Trà Lý, tổng vốn đầu tư 25 tỷ, ước thực hiện tháng 5 đạt 1 tỷ đồng.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/05- 20/05/2018
Xây dựng
Những tháng đầu năm 2018, các trung tâm thương mại, vui chơi giải trí, nước sạch nông thôn, y tế, xử lý rác thải… được tỉnh đặc biệt quan tâm đầu tư xây dựng. Các doanh nghiệp khởi công xây dựng nhà xưởng, mở rộng sản xuất, một số dự án lớn hình thành như Nhà máy sản xuất phụ tùng túi khí và vô lăng ô tô của Công ty Toyoda Gosei (Nhật Bản) được khởi công vào tháng 2/2018, nhà máy sản xuất gạch Granite tổng công suất 3,5 triệu m2/năm tại khu công nghiệp Tiền Hải do Công ty Viglacera thi công đã hoàn thành xong phần cơ sở hạ tầng. Các tuyến đường liên huyện được đầu tư sửa chữa lớn và gấp rút thi công để đưa vào phục vụ nhân dân.
Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước ước tính 5 tháng năm 2018 đạt trên 8.126 tỷ đồng, bằng 58,6% so với dự toán và tăng 4,9% so với cùng kỳ. Trong đó: thu nội địa ước đạt trên 2.052 tỷ đồng, giảm 1,8%; thu thuế xuất nhập khẩu ước đạt trên 671 tỷ đồng, tăng 37,5%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt trên 3.118 tỷ, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng chi ngân sách địa phương ước tính 5 tháng năm 2018 đạt trên 4.807 tỷ đồng, bằng 41,2 so với dự toán và tăng 9,4% so với cùng kỳ; trong đó: chi phát triển kinh tế ước đạt trên 1.755 tỷ đồng, bằng 49,2% so với dự toán và tăng 14,7% so với cùng kỳ; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt trên 2.900 tỷ đồng, bằng 38,4% so với dự toán và tăng 10% so với cùng kỳ.
Thương mại, giá cả, vận tải và dịch vụ
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tháng 5/2018 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt trên 3.267 tỷ đồng, tăng 1% so với tháng trước và tăng trên 7,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Kinh tế Nhà nước có mức tăng tương ứng 0,3% và 15,2%; kinh tế Ngoài nhà nước tăng trưởng lần lượt là 1% và trên 7,2%.
Tháng 5/2018 tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt trên 2.830 tỷ đồng tăng 1,4% so với tháng trước và tăng 7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: kinh tế Ngoài nhà nước tăng trên 6,8% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính tháng 5/2018, doanh thu hoạt động dịch vụ đạt trên 178 tỷ đồng, tăng hơn 7,9% so với cùng kỳ.
Tháng 5/2018 doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước đạt gần 259 tỷ đồng, tăng 10,4% so với cùng kỳ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa 5 tháng năm 2018 ước đạt 14.300 tỷ đồng, tăng trên 10,8% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo loại hình kinh tế: kinh tế nhà nước ước đạt hơn 221 tỷ đồng, tăng 14,4%; kinh tế ngoài Nhà nước ước đạt 14.079 tỷ đồng, tăng 10,8%. Chia theo nhóm ngành hàng: nhóm hàng lương thực, thực phẩm ước đạt hơn 4.511 tỷ đồng (+8,9%); nhóm đồ dùng trang thiết bị gia đình ước đạt hơn 1.795 tỷ đồng (-0,3%); nhóm gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 1.97 tỷ đồng (+12,8%); nhóm xăng dầu ước đạt trên 2.106 tỷ đồng (+28,3%)...
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 5 tháng năm 2018 ước đạt 16.487 tỷ đồng, tăng gần 10,9% so với cùng kỳ. Trong đó: Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 14.300 tỷ đồng, tăng hơn 10,8%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành đạt 1.275 tỷ đồng, tăng gần 12%; doanh thu dịch vụ khác đạt trên 911 tỷ đồng tăng hơn 9,9% so với cùng kỳ năm 2017.
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu:
Xuất khẩu tháng 5/2018 ước đạt 104,5 triệu USD, giảm hơn 2% so với cùng kỳ; trong đó ngành kinh tế ngoài nhà nước ước đạt gần 58 triệu USD ( -11,3%); kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt gần 46 triệu USD ( +13,8%). Mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ như: hàng thủy sản tăng 82,6%; sản phẩm gỗ tăng 71,6%; sản phẩm xơ, sợi dệt các loại tăng 13,4%; sản phẩm sắt thép tăng hơn 2 lần... bên cạnh đó có những mặt hàng xuất khẩu có tốc độ giảm cao như: hàng dệt may (-9,6%), sản phẩm gốm sứ (-55%)....
Ước tính 5 tháng năm 2018, giá trị xuất khẩu đạt trên 513 triệu USD, tăng 10,6% so với cùng kỳ; trong đó kinh tế ngoài nhà nước ước đạt trên 273 triệu USD tăng 11,3%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 237 triệu USD tăng 10,3% so với cùng kỳ năm 2017.
Nhập khẩu:
Giá trị nhập khẩu tháng 5/2018 ước đạt 114 triệu USD tăng hơn 25,5% so với cùng kỳ; trong đó kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 66 triệu USD (+33,5%); kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt gần 48 triệu USD (+16,6%).
Giá trị nhập khẩu 5 tháng năm 2018 ước đạt trên 525 triệu USD tăng 17,1% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó: thành thần kinh tế tư nhân tăng hơn 25,1%; thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng hơn 19,6% so với cùng kỳ.
Hàng hóa xuất nhập khẩu
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5/2018 tăng 0,68% so với tháng trước (khu vực thành thị tăng 0,67%; khu vực nông thôn tăng 0,68%); tăng 2,18% so với tháng 12 năm 2017 và tăng 4,7% so với cùng tháng năm trước. 11 nhóm hàng cấu thành CPI đều có chỉ số tăng và tương đương so với tháng trước như: nhóm “hàng ăn và dịch vụ ăn uống” tăng 1,06%; nhóm “Giao thông” tăng 1,77%.... Một số nguyên nhân tác động đến chỉ số giá tháng 5 tăng so với tháng trước như giá thịt lợn tăng do nguồn cung giảm mạnh; trong tháng 5 có 2 đợt điều chỉnh tăng giá xăng vào ngày 09/5 và 24/5 (giá xăng 95 tăng 1.010 đồng/lít, xăng E5 tăng 1.010 đồng/lít, dầu hỏa tăng 860 đồng/lít) đã tác động đến chỉ số giá nhóm “Giao thông”.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 5 tháng năm 2018 tăng 4,27% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có chỉ số tăng cao như: “nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng” tăng 10,36%; “giáo dục” tăng 4,3%; “thuốc và dịch vụ y tế” tăng 26,74%... tuy nhiên một số nhóm hàng chỉ số tiêu dùng lại giảm như: “Giao thông” giảm 0,39%...
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng, chỉ số giá đô la Mỹ tháng 05 năm 2018
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách
Tháng 5/2018, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 118,4 tỷ đồng giảm 1,2% so với tháng trước và tăng hơn 15,6% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt trên 1,5 triệu người giảm 0,4% so với tháng trước và tăng hơn 11,4% so với cùng kỳ; số lượt khách luân chuyển ước đạt hơn 189 triệu người.km, giảm 1% so với tháng trước, tăng hơn 21,1% so với cùng kỳ.
Doanh thu vận tải hành khách 5 tháng năm 2018 ước đạt hơn 595 tỷ đồng tăng gần 13,1%; số lượt khách vận chuyển ước đạt trên 8,1 triệu người tăng 15,1%; số lượt khách luân chuyển ước đạt 923 triệu hk.km tăng 16,3% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hóa
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 5/2018 ước đạt 299 tỷ đồng, tăng 5,5% so với tháng trước và tăng hơn 14,3% so với cùng kỳ. Khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 1.744 nghìn tấn tăng hơn 6,7% so với tháng trước và tăng hơn 6,7% so với so với cùng kỳ. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt trên 618 triệu tấn.km, tăng 7,6% so với tháng trước và tăng 8,5% so với cùng kỳ.
5 tháng năm 2018, doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.423 tỷ đồng tăng hơn 11,4%; khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 8.492 triệu tấn, tăng hơn 8%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 3.041 triệu tấn.km tăng hơn 4,4% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hành khách và hàng hoá
Một số tình hình xã hội
Lao động và việc làm:
Tháng 5/2018, Sở Lao động - Thương binh Xã hội tiếp nhận, giới thiệu 06 doanh nghiệp có chức năng về tuyển chọn lao động, đào tạo và cung ứng cho thị trường lao động trong và ngoài nước; cấp giấy phép lao động cho 20 lao động là người nước ngoài đến làm việc tại các doanh nghiệp ở tỉnh
Trong tháng, các cơ sở, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tạo việc làm mới cho khoảng 3.720 người (trong đó: việc làm tại địa phương 2.350 người, cung ứng đi làm việc ở tỉnh ngoài 830 người, xuất khẩu lao động 540 người).
Tháng 5/2018, có 3.020 người tham gia học nghề, trong đó: trình độ Cao đẳng là 140 người, trình độ Trung cấp là 620 người, trình độ Sơ cấp và đào tạo dưới 03 tháng là 2.260 người.
Lĩnh vực người có công:
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã triển khai thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách đối với người và gia đình có công với cách mạng, cụ thể: Đề nghị giám định do sót vết thương 05 trường hợp; chế độ thân nhân liệt sỹ cho 08 trường hợp; sửa đổi thông tin cá nhân trong hồ sơ người có công cho 06 trường hợp, tiếp nhận giải quyết chế độ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học cho 42 trường hợp, chế độ đối với con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học cho 01 trường hợp; thẩm duyệt 03 hồ sơ đề nghị cấp thẻ Bảo hiểm y tế; giải quyết chế độ trợ cấp một lần mai táng phí và trợ cấp một lần cho thân nhân người có công 03 trường hợp; giải quyết di chuyển hồ sơ người có công đi tỉnh ngoài 12 trường hợp; sao 110 hồ sơ người có công để trả các huyện, thành phố, rút 205 hồ sơ người có công để giải quyết chế độ chính sách và phục vụ công tác thanh tra và công an, cấp 17 thẻ thương, bệnh binh; tra cứu và xác nhận thông tin liệt sĩ cho 21 thân nhân liệt sĩ, ghép 180 hồ sơ mai táng phí; hướng dẫn các huyện, thành phố hoàn thành việc chi trả trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng tháng 5 năm 2018.
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Tình hình dịch bệnh:
- Trong tháng 4/2018, trên địa bàn tỉnh không phát hiện các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như Cúm A/H5N1, H7N9, bệnh tả; Qua giám sát ghi nhận một số trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm như sau:
+ Sốt xuất huyết lâm sàng: 01 trường hợp (lũy tích 05 trường hợp) giảm 12 trường hợp so với năm 2017;
+ 04 trường hợp viêm hô hấp cấp tính nặng nghi do vi rút, tử vong 02 (Kiến Xương: 2/1; Thái Thụy 1/0; Hưng Hà: 1/1);
+ Liên cầu lợn: ghi nhận 07 trường hợp nghi nhiễm tại xã Tân Lập - Vũ Thư (xét nghiệm vi khuẩn liên cầu lợn âm tính);
+ Viêm màng não mủ: 03 trường hợp, tử vong không;
+ Sốt phát ban nghi sởi: trong tháng ghi nhận 05 trường hợp mắc mới, tổng số mắc đến hiện tại 07 trường hợp (tăng 01 so với cùng kỳ năm 2017);
Các đơn vị chức năng tăng cường công tác giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm gây dịch, khoanh vùng không để bùng phát; chú ý các bệnh dịch mùa Hè, các ổ dịch cũ, các khu vực trọng điểm và đầu mối giao thương; chú trọng giám sát dịch chủ động tại các cơ sở điều trị và tại cộng đồng. Tổ chức phân công cán bộ trực dịch theo dõi, nắm tình hình dịch bệnh xảy ra trên địa bàn 24/24 giờ; thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo bệnh truyền nhiễm và giám sát bệnh truyền nhiễm theo quy định của Bộ Y tế.
Tình hình HIV/AIDS:
- Đã tổ chức tiếp nhận điều trị Methadone cho 1.331 người nghiện ma túy tại tất cả các cơ sở điều trị (Trung tâm PC HIV/AIDS: 181; TTYT Thành phố: 264; Đông Hưng: 120; Vũ Thư: 97; Quỳnh Phụ: 172; Hưng Hà: 138; Tiền Hải: 159; Kiến Xương: 84; Thái Thụy: 116); điều trị ARV cho 1.185 bệnh nhân, tư vấn cho 07 trường hợp phơi nhiễm HIV và cấp thuốc miễn phí điều trị phơi nhiễm cho 06 trường hợp;
- Tính đến ngày 25/4/2018, toàn tỉnh hiện đang quản lý 3.308 người nhiễm HIV/AIDS; 853 người bệnh là phụ nữ (25,7%); số bệnh nhân AIDS hiện còn sống là 1.432 người; riêng trong tháng 04 đã phát hiện thêm 05 ca nhiễm HIV mới, 04 bệnh nhân chuyển AIDS, không có trường hợp nào tử vong do AIDS được báo cáo.
Văn hoá - Thể thao
Lĩnh vực văn hóa.
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tham mưu UBND tỉnh có văn bản trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa di sản văn hóa phi vật thể Lễ hội làng Giắng (thôn Thượng Liệt, xã Đông Tân, huyện Đông Hưng); nghệ thuật Múa rối nước vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học thân thế và sự nghiệp của kỳ đồng Nguyễn Văn Cẩm, đại thi hào Nguyễn Du với Thái Bình. Hoàn thiện Quy chế đặt tên đường phố, công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Thái Bình trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền ngày Bác Hồ ra lời kêu gọi thi đua ái quốc.
Nhà Văn hóa trung tâm tỉnh phối hợp với Đài Phát thanh và Truyền hình Thái Bình tổ chức Liên hoan Chèo không chuyên tỉnh Thái Bình năm 2018.
Lĩnh vực thể dục, thể thao
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch đề xuất đăng cai tổ chức vòng chung kết giải Bóng đá Nhi đồng toàn quốc năm 2018. Tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành kế hoạch, Quyết định thành lập Ban Tổ chức và các Tiểu ban giúp việc Ban Tổ chức lễ khai mạc Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Thái Bình lần thứ VIII. Xây dựng Kế hoạch tập huấn chuyên môn lặn phòng, chống lụt bão cho cán bộ các huyện, thành phố; tập huấn đội lặn có khí tài thường trực phòng, chống lụt bão của tỉnh. Tập huấn phương pháp dạy bơi, cứu đuối nước cho cán bộ, giáo viên, cộng tác viên năm 2018.
Trung tâm Huấn luyện Thể dục thể thao tổ chức tập huấn và tham gia thi đấu các giải: Bóng chuyền các đội mạnh toàn quốc vòng I; Vô địch Đua thuyền các CLB toàn quốc; cầu lông các CLB toàn quốc; Cúp Boxing toàn quốc; Cúp đua thuyền Châu Á; Vô địch Karatedo Đông Nam Á, đạt: 04 HCV, 05 HCB, 04 HCĐ.
Tình hình cháy nổ
Trong tháng 5/2018, trên địa bàn tỉnh Thái Bình xảy ra 7 vụ cháy, không có người chết và bị thương, thiệt hại về tài sản ước tính 35 triệu đồng.
An toàn giao thông
Theo báo cáo của Ban an toàn giao thông từ ngày 16/4 đến ngày 15/5/2018 trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông đường bộ, không có người bị chết và 01 người bị thương. Ngoài ra trong tháng xảy ra 04 vụ va chạm giao thông làm 06 người bị thương nhẹ, thiệt hại ước tính trên 10 triệu đồng./.