I. Những thuận lợi và khó khăn trong năm 2024
Năm 2024, đa số các tổ chức quốc tế đều nhận định lạc quan về tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Cụ thể, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD); Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nhận định nền kinh thế giới đạt mức tăng trưởng 3,2% năm 2024; Liên hợp quốc (UN); Fitch Ratings (FR) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 đạt 2,7%. Tuy nhiên, thực tế cho thấy kinh tế thế giới đã trải qua một năm với rất nhiều bất ổn, cùng những biến động khó lường. Căng thẳng địa chính trị kéo dài, xu hướng toàn cầu hóa đảo ngược, các kịch bản xoay quanh cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ cùng nhiều sự kiện kinh tế - chính trị khác đã khiến bức tranh kinh tế vốn đã phân hóa lại trở nên ngày càng phức tạp hơn.
Kinh tế Việt Nam 2024, tuy dần phục hồi, dẫn đầu bởi sản xuất, thương mại và FDI vẫn biến động khó lường và nhu cầu nội địa chưa hồi phục hoàn toàn, ảnh hưởng của cơn bão số 3 (bão Yagi), lũ lụt, sạt lở đất nghiêm trọng trong tháng Chín đã gây thiệt hại nặng nề về người, tài sản và sản xuất, kinh doanh tại các địa phương miền Bắc; giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào tăng cao làm tăng chi phí sản xuất, vận tải, tạo áp lực lên kiểm soát lạm phát; các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đang được triển khai... Với quyết tâm tạo động lực đột phá để phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu đề ra, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện giải pháp đặt ra tại các Nghị quyết. Các Bộ, ngành, địa phương đã theo dõi chặt chẽ những biến động của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng; khắc phục nhanh thiệt hại cơn bão số 3, lũ lụt và sạt lở đất gây ra.
Trong tỉnh, trước những thuận lợi và khó khăn đan xen, ngay từ đầu năm, tỉnh Thái Bình đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024 theo đúng tinh thần chỉ đạo tại Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ và các Nghị quyết của Tỉnh ủy - HĐND tỉnh. Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân trong tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội năm 2024 duy trì xu hướng tích cực, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong năm nay như sau:
II. Kết quả đạt được
1. Tăng trưởng kinh tế
GRDP trên địa bàn tỉnh Thái Bình năm 2024 (giá so sánh 2010) ước đạt 71.326,1 tỷ đồng, tăng 7,01% so với cùng kỳ năm 2023 (kế hoạch 8,5 - 9% trở lên). Là địa phương xếp thứ 44 cả nước, thứ 9 thuộc đồng bằng Sông Hồng về tốc độ phát triển tổng sản phẩm trên địa bàn. Trong đó:
Khu vực Nông lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 13.754,3 tỷ đồng, giảm 0,1% so với cùng kỳ, giảm 0,02 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
Khu vực Công nghiệp - Xây dựng ước đạt 32.488,3 tỷ đồng, tăng 11,76% so với cùng kỳ, đóng góp 5,13 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng; trong đó: ngành công nghiệp tăng 14,12% (đóng góp 4,24 điểm phần trăm), ngành xây dựng tăng 6,52% (đóng góp 0,88 điểm phần trăm).
Khu vực Dịch vụ ước đạt 21.048,2 tỷ đồng, tăng 6,62% so với cùng kỳ, đóng góp 1,96 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
Năm 2024, GRDP bình quân đầu người (theo giá hiện hành) đạt 70,23 triệu đồng/người.
Quy mô kinh tế của tỉnh đạt 132.758,9 tỷ đồng, xếp thứ 23 địa phương trong cả nước, thứ 8/11 địa phương vùng đồng Bằng Sông Hồng.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 19,7%, công nghiệp và xây dựng chiếm 44,3%, dịch vụ chiếm 30,41%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,6%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Năm 2024, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh chịu ảnh hưởng của cơn bão số 3(YAGI) tới hoạt động sản xuất nông nghiệp, giá cả vật tư đầu vào cho sản xuất vẫn ở mức cao. Song với sự chỉ đạo của UBND tỉnh, ngành Nông nghiệp, sự cố gắng của bà con nông dân, kết quả sản xuất nông nghiệp đảm bảo duy trì ổn định; các chính sách hỗ trợ cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh tiếp tục được thực hiện hiệu quả; cơ cấu cây trồng có sự chuyển dịch tích cực; các sản phẩm chăn nuôi chủ yếu như lợn, gà đều đạt mức tăng so với cùng kỳ; sản xuất lâm nghiệp và thủy sản nhìn chung ổn định. Kết quả cụ thể như sau:
a) Nông nghiệp
Tổng Diện tích gieo trồng cây hàng năm năm 2024 ước đạt 216.196 ha, giảm 0,29% (-639 ha) so với cùng kỳ. Trong đó, tổng diện tích lúa năm 2024 ước đạt 148.426,3 ha, giảm 0,8% (-1.237 ha) so với năm 2023.
+ Sản xuất vụ Đông Xuân
Tổng diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân năm 2024 đạt 126.140,7 ha, giảm 184,8 ha (-0,15%) so với vụ đông xuân năm 2023; trong đó: diện tích gieo trồng vụ Đông đạt 37.236 ha, tăng 592 ha; tổng diện tích gieo trồng vụ Xuân năm 2024 đạt 88.904,7 ha, giảm 776,5 ha(-0,87%). Tổng diện tích gieo cấy là 74.171,3 ha, giảm 641,7 ha (-0,86%) so với vụ xuân năm 2023. Năng suất lúa Xuân năm 2024 đạt 71,08 tạ/ha, sản lượng lúa vụ Xuân đạt 527,2 nghìn tấn, giảm 3,6 nghìn tấn (-0,68%) so với vụ Xuân năm trước.
+ Sản xuất vụ Mùa
Vụ mùa 2024, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm đạt 90.055,3 ha, giảm 453,7 ha (-0,50%) so với vụ mùa năm 2023. Trong đó diện tích lúa đạt 74.255 ha, giảm 596 ha (-0,80%). Năm 2024, Thái Bình bước vào gieo cấy vụ mùa có nhiều thuận lợi cả về thời tiết và thời vụ, các địa phương tập trung gieo cấy một số giống có giá trị và năng suất cao, cụ thể: Các giống lúa có chất lượng gạo ngon (kể cả giống nếp dài ngày) có diện tích 30.733 ha, chiếm gần 42% tổng diện tích lúa mùa. Giống lúa thuần có năng suất cao, chịu thâm canh chiếm 58% gồm các giống lúa lai, Q5, BC15, TBR45, TBR1, TBR225, Thiên ưu 8…
Do ảnh hưởng của bão số 3 vào ngày 7/9 kết hợp với mưa lớn, nước lũ dâng nhanh các địa phương trong toàn tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tích cực chủ động khắc phục. Tuy nhiên nhiều diện tích lúa mùa, cây màu và diện tích nuôi trồng thủy sản của người dân trên toàn tỉnh đã bị ảnh hưởng, thiệt hại gây ảnh hưởng đến kết quả sản xuất. Theo kết quả điều tra năng suất lúa mùa đạt 53,55 tạ/ha, giảm 6,25 tạ/ha (-10,45%) so với vụ mùa năm 2023.
Diện tích cây lâu năm toàn tỉnh năm 2024 ước đạt 8.249 ha, giảm 1,74% (-146 ha) so với năm 2023; trong đó diện tích cây ăn quả đạt 5.863 ha, chiếm 71,08% trong tổng diện tích cây ăn quả của toàn tỉnh, giảm 2,49% (-150 ha) so với cùng kỳ năm 2023; Diện tích Cây dược liệu lâu năm đạt 937 ha, tăng 5 ha (+0,49%) so với năm trước, trong đó chủ yếu là cây hòe với diện tích đạt 840 ha, tăng 2 ha (+0,29%), diện tích thu hoạch của hòe là 820 ha, tăng 2,47 ha (+0,29%), sản lượng thu hoạch của hòe ước đạt 3.429 tấn, tăng 12 ha (+0,33%) so với năm trước.
Hầu hết các loại cây ăn quả đều được mùa cho năng suất khá, sản lượng của nhiều loại cây trồng như mít, các loại quả có múi thuộc họ cam quýt,...tăng so cùng kỳ như: Cam đạt 2,7 nghìn tấn, tăng 0,7%; mít đạt 2,5 nghìn tấn, tăng 1%; bưởi đạt 3,9 nghìn tấn, tăng 1,6%...
Chăn nuôi gia súc: Tổng đàn trâu, bò tại ước tính đến thời điểm 01/01/2025 đạt 60,04 nghìn con, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Tổng đàn trâu ước đạt 7,2 nghìn con, tăng 0,3%; tổng đàn bò ước đạt 52,8 nghìn con, tăng 0,7%. Năm 2024 sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng ước đạt 10.871 tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 925 tấn, tăng 1,9%; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước đạt 9.946 tấn, tăng 2,2% .
Chăn nuôi lợn: Chăn nuôi lợn vẫn còn gặp nhiều khó khăn do giá thức ăn và con giống vẫn ở mức cao trong thời gian dài nên việc tái đàn còn chậm, tỷ lệ đàn nái lai, nái ngoại tăng hơn so với năm trước, ước tính chiếm khoảng 80% tổng đàn nái, đàn nái nội chỉ còn khoảng 20%. Đàn lợn thịt có tỷ lệ nạc cao từ 75% đến 100% máu ngoại chiếm trên 80% đàn lợn thịt; trọng lượng xuất chuồng bình quân tăng, đạt khoảng từ 105 - 115 kg/con. Tổng đàn lợn ước tính tại thời điểm tháng 01/01/2025 đạt 707,9 nghìn con, giảm 0,3%; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 178,9 nghìn tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2023.
Chăn nuôi gia cầm:
Số lượng đàn gia cầm đến thời điểm hiện tại đã chạm ngưỡng cao. Trong những tháng cuối năm, tình hình thời tiết ổn định, dịch bệnh ít, số lượng đàn gia cầm tăng nhất là số lượng đàn gà do các hộ chăn nuôi đang chuẩn bị nuôi phục vụ nhu cầu thực phẩm vào dịp cuối năm và Tết Ất Tỵ sắp tới. Ước tính tổng đàn gia cầm thời điểm 01/01/2025 đạt 14,7 triệu con, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Số lượng đàn gà đạt 10,5 triệu con, tăng 0,8%; số lượng đàn vịt đạt 3 triệu con, tăng 0,6%.
Tính chung năm 2024 sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 74,7 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng đạt 59 nghìn tấn, tăng 3,3%. Sản lượng trứng gia cầm ước đạt 351,1 triệu quả, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng trứng gà ước đạt 198,6 triệu quả, tăng 2,7%.
b) Lâm nghiệp
Năm 2024, trên địa bàn tỉnh Thái Bình tập trung vào việc chăm sóc, bảo vệ rừng và tiếp tục chỉ đạo các xã ven biển tăng cường công tác quản lý và chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện trồng bổ sung rừng ngập mặn ven biển, không có diện tích rừng được trồng mới.
Tính chung cả năm 2024 sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2.305 m3, giảm 2,2%; sản lượng củi khai thác ước đạt 7.620 ste, giảm 1% so với cùng kỳ năm trước.
c) Thuỷ sản
Sản xuất thủy sản tiếp tục phát huy thế mạnh về khai thác và nuôi trồng thủy sản ven biển, duy trì các mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao, tích cực khắc phục cảnh báo của Ủy ban Châu Âu (EC) về khai thác thủy sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU).
Tổng sản lượng thủy sản năm 2024 ước đạt 296,1 nghìn tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước ; trong đó sản lượng khai thác ước đạt 103,2 nghìn tấn, tăng 1,6%; sản lượng nuôi trồng ước đạt 192,9 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước.
d) Chương trình xây dựng Nông thôn mới
Năm 2024, công tác xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu tiếp tục được quan tâm chỉ đạo thực hiện theo hướng thực chất, hiệu quả; Đến tháng 12/2024, toàn tỉnh có: 100% số xã được công nhận xã đạt chuẩn NTM; 7 huyện và thành phố Thái Bình được công nhận đạt chuẩn quốc gia và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM; 36 xã (đạt 16,14% số xã) đã được công nhận đạt chuẩn NTM nâng cao; 01 xã (xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ) được công nhận đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; hiện tại có 11 xã trên địa bàn huyện Kiến Xương và Tiền Hải đang hoàn thiện thủ tục để được công nhận xã đạt chuẩn Nông thông mới nâng cao năm 2024. Trong số 189 xã còn lại chưa đạt xã NTM nâng cao: Có 54 xã đạt 15-18 tiêu chí; 80 xã đạt 10-14 tiêu chí; 55 xã đạt dưới 10 tiêu chí.
3. Sản xuất công nghiệp
Năm 2024, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp ước tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 18,5%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 7,5%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 30,8%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,9%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2024
Tính chung năm 2024, Một số sản phẩm sản xuất tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Tàu đánh bắt thuỷ hải sản, các loại tàu chuyên dụng (+62,05%); Túi khí an toàn (+43,07%); Thức ăn cho gia súc (+30,48%); Cần gạt nước, sương, tuyết trên kính chắn (+28,35%); Điện sản xuất (+33,42%); điện thương phẩm tăng (+5,93%) so cùng kỳ.... Tuy nhiên vẫn còn một số ngành có tốc độ giảm như: Tai nghe khác (-85,91%); Xe mô tô chưa được phân vào đâu, xe thùng (-81%); Loa đã hoặc chưa lắp vào hộp loa (-23,22%) …..
Năm 2024, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,53% so với cùng kỳ năm 2023 (cùng kỳ năm 2023 tăng 6,33%).
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/12/2024 tăng 2,05% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 4,83% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 11,03%).
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2024 tăng 1,21% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 6% so với cùng thời điểm năm trước.
Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV năm 2024 cho thấy: Có 53,66% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý III năm 2024; 39,02% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 7,32% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn.
4. Hoạt động của doanh nghiệp
Theo số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/12/2024 toàn tỉnh có 1.172 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đầu tư là 12.604 tỷ đồng và số lao động đăng ký là 19.318 người. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp trong tháng là 10,75 tỷ đồng, 310 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động. Bình quân một tháng có gần 124 doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Bên cạnh đó, có 44 doanh nghiệp trong giai đoạn tạm ngừng kinh doanh và 14 doanh nghiệp đã hoàn tất thủ tục giải thể.
Theo khu vực kinh tế, năm 2024 có 7 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản với tổng số vốn đầu tư là 53 tỷ đồng và số lao động đăng ký là 22 người; có 469 doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng với tổng số vốn đầu tư là 5.454 tỷ đồng và 16.526 lao động đăng ký; có 696 doanh nghiệp thuộc khu vực thương mại dịch vụ, với tổng số vốn đăng ký là 7.097 tỷ đồng và 2.770 lao động đăng ký.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Thái Bình năm 2024: Vốn đăng ký cấp mới có 46 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký 930.305 nghìn USD, trong đó ngành công nghiệp Chế biến chế tạo được cấp phép mới là 42 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký đạt 542.780 nghìn USD. Trong số 8 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án được cấp phép đầu tư mới vào Thái Bình trong năm 2024, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 3 dự án đạt tổng số vốn đăng ký là 415.034 nghìn USD chiếm 44,6% tổng số vốn đăng ký mới, tiếp đến là Samoa với 2 dự án đạt tổng số vốn đăng ký là 161.000 nghìn USD chiếm 17,31% tổng số vốn đăng ký mới.
5. Thương mại và dịch vụ
Năm 2024, hoạt động thương mại dịch vụ cơ bản ổn định, thị trường không có biến động lớn, hoạt động mua sắm, tiêu dùng nội địa được thức đẩy. Hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng những tháng cuối năm diễn ra sôi động đáp ứng nhu cầu dịp lễ, tết cuối năm. Khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng tích cực so với năm trước.
Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 80.168 tỷ đồng, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa năm 2024 ước đạt 70.193 tỷ đồng, chiếm 87,6% tổng mức và tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm lương thực, thực phẩm tăng 23%; hàng may mặc tăng 22,4%; xăng dầu các loại tăng 11,4%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 11,1%; nhiên liệu khác tăng 18,5%; sửa chữa xe có động cơ tăng 21,6%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 28,9%; hàng hóa khác tăng 14,2%,…
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành năm 2024 ước đạt 5.874 tỷ đồng, chiếm 7,3% tổng mức và tăng 20,4% so với năm trước. Trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 192 tỷ đồng, tăng 8,5%; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 5.584 tỷ đồng, tăng 21,1%; dịch vụ lữ hành ước đạt 98 tỷ đồng, tăng 9,7%.
Doanh thu dịch vụ khác năm 2024 ước đạt 4.101 tỷ đồng, chiếm 5,1% tổng mức và tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Bất động sản tăng 19,3%; dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 10,8%; dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 18,9%; dịch vụ y tế tăng 14,1%; dịch vụ nghệ thuật vui chơi và giải trí tăng 17,5%; dịch vụ khác tăng 14,4%.
Hoạt động vận tải: Hoạt động vận tải năm 2024 khá sôi động, đáp ứng tốt nhu cầu đi lại của hành khách và vận chuyển hàng hóa phục vụ sản xuất kinh doanh dịp lễ, tết. Ước tính năm 2024, tổng doanh thu hoạt động vận tải đạt 9.231 tỷ đồng, tăng 12% so với năm trước; trong đó vận tải hành khách tăng 20,4%; vận tải hàng hóa tăng 8,7%.
Doanh thu vận tải hành khách năm 2024 ước đạt 2.784 tỷ đồng, tăng 20,4% so với cùng kỳ; khối lượng hành khách vận chuyển đạt 37,4 triệu lượt khách, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 4.216,2 triệu lượt khách.km, tăng 19,9%; doanh thu ước đạt 2.784 tỷ đồng, tăng 20,4%.
Doanh thu vận tải hàng hoá năm 2024 ước đạt 6.352 tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ; trong đó: khối lượng vận chuyển hàng hóa đạt 39,4 triệu tấn, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 13.955,6 triệu tấn.km, tăng 9%; doanh thu ước đạt 6.352 tỷ đồng, tăng 8,7%.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá
Năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 4.880 triệu USD, tăng 10,7% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 12,6%, nhập khẩu tăng 7,8%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 1.077 triệu USD.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2024 ước đạt 2.978 triệu USD, tăng 12,6% so với năm trước; trong đó: Kinh tế tư nhân đạt 1.652 triệu USD, tăng 10,7%, chiếm 55,5% tổng kim ngạch xuất khẩu; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1.326 triệu USD, tăng 15,1%, chiếm 44,5%. Trong năm, có 9 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 20 triệu USD, chiếm 76,7% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 4 mặt hàng xuất khẩu trên 100 triệu USD, chiếm 71,7%). Về thị trường xuất khẩu hàng hóa năm 2024, Châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của tỉnh đạt 1.669 triệu USD (chiếm 56%), tăng 15,3% so với cùng kỳ; tiếp đến là Châu Mỹ đạt 858 triệu USD (chiếm 28,8%), tăng 19%; Châu Âu đạt 312 triệu USD (chiếm 10,5%), tăng 16,5%.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2024 ước đạt 1.901 triệu USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế tư nhân đạt 897 triệu USD, tăng 2,5%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1.004 triệu USD, tăng 12,9%. Trong năm có 10 mặt hàng nhập khẩu đạt giá trị trên 20 triệu USD, chiếm tỷ trọng 81,3% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 4 mặt hàng nhập khẩu trên 100 triệu USD, chiếm 68,3%). Về thị trường nhập khẩu hàng hóa năm 2024, Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của tỉnh đạt 1.598 triệu USD (chiếm 84%), tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Châu Mỹ đạt 79 triệu USD (chiếm 4,1%), tăng 38,1%; Châu Âu đạt 70 triệu USD, tăng 24%.
Tính chung cả năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ xuất siêu 1.077 triệu USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 880 triệu USD). Trong đó khu vực kinh tế tư nhân xuất siêu 755 triệu USD, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 322 triệu USD.
6. Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2024 ước đạt 26.723,1 tỷ đồng, đạt 137,1% so với dự toán, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa ước đạt 11.068,4 tỷ đồng, tăng 12,8% (thu tiền sử dụng đất đạt 5.568 tỷ đồng, tăng 49,7% dự toán); thu thuế xuất, nhập khẩu ước đạt 1.150 tỷ đồng, giảm 21,7%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt 10.213,7 tỷ đồng, tăng 37,2%.
Tổng chi ngân sách địa phương năm 2024 ước đạt 25.249,1tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, chi phát triển kinh tế ước đạt 11.427,7 tỷ đồng, tăng 24%.
Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên địa bàn, hoạt động tín dụng tín dụng tăng trưởng tốt. Dự kiến đến 31/12/2024, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước đạt 137.850 tỷ đồng, tăng 12% so với 31/12/2023; tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng ước đạt 108.230 tỷ đồng, tăng 15% so với 31/12/2023; tỷ lệ nợ xấu nội bảng chiếm khoảng 0,9% tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng trên địa bàn.
Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Thái Bình, ước thu năm 2024 đạt 6.550 tỷ đồng, tăng 2,5% dự toán BHXH giao. Quản lý 244.699 người tham gia BHXH bắt buộc, tăng 15.000 người; 61.500 người tham 5 gia BHXH tự nguyện, tăng 6.161 người; 233.804 người tham gia BHTN, tăng 14.856 người; 1.718.237 người tham gia BHYT, tăng 19.179 người so với năm 2023 (chiếm 91,5% dân số của tỉnh).
Ước đến 31/12/2024, cập nhật dữ liệu CCCD/ĐDCN đối với 1.623.215 người tham gia vào phầm mềm quản lý, đạt 99,9%.
7. Đầu tư và xây dựng
7.1. Đầu tư
Năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 8.733,7 tỷ đồng, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước đạt 3.912,3 tỷ đồng, tăng 1,6%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 3.532,6 tỷ đồng, tăng 14,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã ước đạt 1.288,8 tỷ đồng, giảm 10,7% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh năm 2024 ước đạt 62.814,3 tỷ đồng, tăng 6,1% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước ước đạt 9.287 tỷ đồng, tăng 9,83%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân ước đạt 36.538 tỷ đồng, giảm 10,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 12.247 tỷ đồng, tăng 80,91%.
Đánh giá chung tình hình thực hiện vốn đầu tư ở một số dự án, công trình trong năm 2024
Khu vực đầu tư công: Dự án đầu tư xây dựng các tuyến đường trục kết nối với các khu chức năng trong Khu kinh tế Thái Bình với mức vốn đầu tư thực hiện năm 2024 ước đạt 182,4 tỷ đồng; dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu trung tâm thành phố tại phường Lê Hồng Phong và Phường Bồ Xuyên, Thành Phố Thái Bình, vốn đầu tư thực hiện ước đạt 274 tỷ đồng;…..
Khu vực sử dụng vốn ODA: Dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu tại huyện Thái Thụy, ước đạt 13,8 tỷ đồng;
Khu vực doanh nghiệp Nhà nước: Các dự án xây dựng mới, sửa chữa lớn công trình điện, mua sắm máy móc, thiết bị của Công ty TNHH MTV Điện lực Thái Bình ước đạt gần 2.000 tỷ đồng; dự án xây dựng hoàn thiện nhà máy Nhiệt điện 2 Thái Bình ước đạt 702 tỷ đồng;
Dự án đường dây 500kV từ Quảng Trạch (Quảng Bình) đến Phố Nối (Hưng Yên) có tổng chiều dài khoảng 519km, điểm đầu là Trung tâm điện lực Quảng Trạch, điểm cuối là Trạm biến áp 500kV Phố Nối (Hưng Yên). Tổng mức đầu tư các Dự án là hơn 22.356 tỷ đồng, do Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT) thuộc EVN làm chủ đầu tư., trong đó vốn đầu tư đoạn 38,93km của Thái Bình khoảng 1.783,1 tỷ đồng;…
Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước: Dự án đầu tư xây dựng nhà máy dệt vải mộc công suất 18 triệu mét vải tại cụm công nghiệp Phong Phú của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển Phú Việt ước đạt 104,8 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất gia công giày thể thao của Công ty TNHH đầu tư chế biến xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Thái Bình ước đạt 75 tỷ đồng; dự án nhà máy sản xuất Quartz siêu trắng của Công ty Cổ Phần Xi Măng Thái Bình ước đạt 75 tỷ đồng…
Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dự án nhà máy Pegavision (sản xuất kính áp tròng) của công ty Pegavision Việt Nam ước đạt 1.560 tỷ đồng; dự án nhà máy Sản xuất thiết bị làm vườn của nhà đầu tư Greenworks Thái Bình Việt Nam ước đạt 1.693 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng xưởng sản xuất gia công các sản phẩm điện chiếu sáng của nhà đầu tư Công ty TNHH Gateway Lighting Việt Nam ước đạt 131 tỷ đồng; dự án nhà máy sản xuất phụ kiện gia đình, đèn chiếu sáng của nhà đầu tư Công ty Jeanson Industrial Limited (Công ty TNHH công nghiệp Be Bright), ước đạt 1.400 tỷ đồng;…
7.2. Xây dựng
Năm 2024, một số dự án công trình trọng điểm của tỉnh được tiếp tục triển khai, thực hiện. Cụ thể:
Dự án đầu tư sản xuất đồ dùng thể thao Li Hong Việt Nam, tổng mức đầu tư 200 tỷ đồng, thời gian khởi công vào quý IV năm 2023; bắt đầu đi vào hoạt động quý II năm 2024;
Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng CCN Đức Hiệp, tổng mức đầu tư 427,8 tỷ đồng; Bắt đầu hoạt động giai đoạn I vào quý III/2024;
Dự án Công ty Compal Việt Nam, tổng mức đầu tư 6.466,6 tỷ đồng. Khởi công tháng 2 năm 2024;
Dự án nhà máy sản xuất rượu Soju tại Việt Nam, tổng mức đầu tư 2.439 tỷ đồng, khởi công tháng 1 năm 2024;
Dự án Công ty TNHH công nghệ Goodway Việt Nam, tổng mức đầu tư 1.053 tỷ đồng, khởi công tháng 1 năm 2024;
Dự án Công ty TNHH Xuli Cargo Control VN, tổng mức đầu tư 502,3 tỷ đồng, khởi công tháng 1 năm 2024;
Dự án nhà máy Keystone Electrical VN, tổng mức đầu tư 980 tỷ đồng, khởi công tháng 1 năm 2024;
Dự án sản xuất đế giầy YulongVN, tổng mức đầu tư 63,6 tỷ đồng, khởi công tháng 1 năm 2024, ước quý IV năm 2024 đạt 30 tỷ đồng;
Dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất thiết bị vệ sinh Dali Việt Nam, tổng mức đầu tư 235,6 tỷ đồng, khởi công tháng 1 năm 2024, dự tính quý IV năm 2024 ước đạt 30 tỷ đồng;
Dự án công ty THHH Ssangsol Vina, tổng mức đầu tư 598,8 tỷ đồng, khởi công tháng 7 năm 2024, ước quý IV năm 2024 đạt 120 tỷ đồng;
Dự án công ty TNHH CJVNM tổng mức đầu tư 177 tỷ đồng, khởi công tháng 6 năm 2024, ước thực hiện quý IV năm 2024 đạt 40 tỷ đồng…
8. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2024 tăng 4,77% so với bình quân năm 2023. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 02 nhóm giảm giá gồm nhóm giao thông (-1,33%) và nhóm bưu chính viễn thông (-0,10%); còn lại 9/11 nhóm hàng CPI bình quân tăng: Nhóm giáo dục tăng cao nhất (+24,12%), do một số trường cao đẳng, đại học, mầm non tư thục tăng giá học phí vào tháng 9,10 năm 2024; nhóm thuốc và dịch vụ y tế (+12,42%), do tác động từ giá dịch vụ y tế điều chỉnh tháng 11/2023; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác (+8,39%) do tác động từ giá vàng tăng đẩy giá đồ trang sức tăng; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+4,89%) chủ yếu do nhóm lương thực, thực phẩm tăng do gạo địa phương nguồn cung sụt giảm, nhu cầu tiêu dùng tăng cao tại thời điểm tháng 12/2023 và tháng 1/2024, 12/2024 giá gạo nếp tăng, giá gạo tẻ tăng 23,66%, cùng với giá thịt lợn tăng 8,74%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+2,88%) do ảnh hưởng từ giá cát tăng trong tháng 01/2024 và giá điện sinh hoạt tăng; nhóm đồ uống và thuốc lá (+1,63%) do giá rượu, bia, thuốc lá tăng; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch (+0,75%); nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,61%); nhóm may mặc, mũ nón và giày dép (+0,45%).
9. Một số lĩnh vực xã hội
a, Dân số, tình hình lao động và việc làm
Dân số trung bình năm 2024 trên địa bàn tỉnh Thái Bình là 1890,4 nghìn
người. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 996,8 nghìn người, trong đó lao
động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế là 986,0 nghìn người. Cơ cấu lao động của tỉnh đang có sự chuyển dịch tích cực: Lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản theo xu hướng giảm, lao động làm việc trong các ngành phi nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng lên. Cụ thể: lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 21,3%, công nghiệp xây dựng chiếm tỷ lệ 48,8% và lao động dịch vụ chiếm tỷ lệ 29,9%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2024 ước đạt 70,45 triệu đồng.
Năm 2024, các đơn vị chức năng đã cung ứng 181 lao động của tỉnh đi làm việc tại Hàn Quốc theo chương trình lao động thời vụ tại Hàn Quốc với 2 ngành chủ yếu là nông nghiệp và ngư nghiệp (trong đó ngư nghiệp là 48 người). Thực hiện chính sách trợ cấp thất nghiệp cho 10.392 trường hợp. Tư vấn giới thiệu việc làm cho trên 65.000 lượt người. Kết quả, tổng số lao động có việc làm tăng thêm khoảng 34.800 lao động (tăng 0,86%), trong đó: việc làm tại địa phương 24.890 lao động, đi làm việc ở tỉnh ngoài 6.410 lao động, đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 3.500 lao động. Năm 2024 tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội giảm còn 21,3%.
Năm 2024 số người tham gia học nghề là 39.000 người (tăng 6,2% so với năm 2023), trong đó: trình độ cao đẳng là 4.170 người, trình độ trung cấp là 7.390 người, trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 03 tháng là 27.440 người.
b, Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Năm 2024, kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo UBND tỉnh phê duyệt. Tổng số hộ nghèo là 10.384 hộ, tỷ lệ hộ nghèo là 1,59% (giảm 1.541 hộ, giảm 0,23% so với năm 2023, hoàn thành chỉ tiêu Chính phủ giao giảm tỷ lệ hộ nghèo 0,2% và kế hoạch của UBND tỉnh giảm từ 1.000 đến 1.500 hộ nghèo); Tổng số hộ cận nghèo: 10.907 hộ, tỷ lệ hộ cận nghèo 1,67% (giảm 1.680 hộ, giảm 0,25%), đồng thời, tham mưu UBND tỉnh ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo triển khai công tác xóa nhà tạm, nhà dột nát cho người dân trên địa bàn tỉnh Thái Bình giai đoạn 2024-2025; tổ chức Lễ phát động đợt thi đua cao điểm “300 ngày chung tay xoá nhà tạm, nhà dột nát” trên địa bàn tỉnh Thái Bình, trong lễ phát động kêu gọi các doanh nghiệp, cơ quan đơn vị, các nhà hảo tâm ủng hộ nghèo, hộ cận nghèo xóa nhà tạm, nhà dột nát; tổ chức Lễ khởi công xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo tại 8 huyện, thành phố. Đợt 1 năm 2024 có 363 hộ gia đình có nhu cầu xây mới và sửa chữa nhà ở trong đó: (có 221 nhà xây mới và 142 nhà sửa chữa), với tổng kinh phí 29,2 tỷ đồng.
Công tác bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo cho Nhân dân được quan tâm, chỉ đạo thực hiện tốt; tổ chức các hoạt động thăm hỏi, tặng quà đối với người có công và thân nhân, người cao tuổi, hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, công nhân, người lao động, đối tượng bảo trợ xã hội và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Xây dựng kế hoạch tổ chức mua sắm quà chúc thọ, mừng thọ cho người cao tuổi tròn 100 tuổi và người cao tuổi tròn 90 tuổi nhân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025
Thực hiện chăm sóc và nuôi dưỡng cho 416 đối tượng bảo trợ xã hội (Trung tâm Chăm sóc và Phục hồi chức năng cho người tâm thần đang chăm sóc, nuôi dưỡng 235 người tâm thần; Trung tâm Công tác xã hội và Bảo trợ xã hội đang chăm sóc, nuôi dưỡng 181 đối tượng bảo trợ xã hội). Tiếp tục phối hợp thực hiện hỗ trợ cho 91 trường hợp thuộc Chương trình Cặp lá yêu thương.
Năm 2024, tiếp nhận hơn 12.000 lượt thủ tục hành chính tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh về các chính sách giải quyết chế độ đối với thân nhân người có công, mai táng phí và các chế độ khác đối với người có công; tiếp nhận hơn 4.000 hồ sơ tại bộ phận một cửa. Các thủ tục được giải quyết kịp thời, đúng hạn.
c, Giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao
+ Ngành giáo dục đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của cấp trên về việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, tích cực thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Năm học 2024-2025, toàn tỉnh có 747 cơ sở giáo dục; 12.118 lớp; 400.162 học sinh; 24.890 cán bộ quản lý cơ sở giáo dục, giáo viên, nhân viên trường học; 12.677 phòng học, 1.731 phòng học bộ môn, 120 nhà đa năng, 4.629 bộ bàn ghế học sinh được mua mới, 4.208 công trình vệ sinh bảo đảm tiêu chuẩn. Hiện nay, toàn tỉnh có 691/735 (94,04%) trường học đạt chuẩn quốc gia.
Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm học 2023-2024: có 66 thí sinh
tham gia Kỳ thi, kết quả 42 thí sinh đoạt giải (tăng 8 giải so với năm học trước),
trong đó: 8 giải Nhì; 16 giải Ba; 18 giải Khuyến khích; 01 học sinh Hội Vật lý Việt
Nam chọn cử tham dự Kỳ thi Olympic Vật lý Châu Âu.
Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2024-2025 được tổ chức từ ngày 06-08/6/2024, tham dự Kỳ thi có 20.513 thí sinh; 30 Hội đồng với 32 điểm thi. Kết quả: 525 thí sinh trúng tuyển vào trường THPT Chuyên, 14.238 thí sinh trúng tuyển vào các trường THPT công lập đợt 1, 1.532 thí sinh trúng tuyển vào các THPT công lập đợt 2. Công tác tuyển sinh vào các trường THPT tư thục, Trung tâm GDNN-GDTX huyện, thành phố được thực hiện trên phần mềm tuyển sinh đầu cấp, bảo đảm đúng kế hoạch, công khai và kịp thời. Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024 được tổ chức từ ngày 26-29/6/2024, tham dự Kỳ thi có 22.726 thí sinh; 690 thí sinh tự do. 1.052 thí sinh chỉ xét tốt nghiệp, 21.674 thí sinh có dùng kết quả thi xét đại học, cao đẳng năm 2024. Toàn tỉnh tổ chức 35 điểm thi với 974 phòng thi. Kết quả, điểm trung bình các môn thi tốt nghiệp xếp thứ 11/63 tỉnh, thành phố; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt 99,9%; trong đó, tỷ lệ tốt nghiệp học sinh trường THPT là 99,94%, tỷ lệ tốt nghiệp học sinh trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên là 99,67%. Có 02 thí sinh đạt thủ khoa toàn quốc; 01 thí sinh đạt á khoa toàn quốc.
+ Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được cải thiện, nhiều chỉ số sức khỏe đạt mức tốt hơn so với bình quân chung cả nước; một số dịch bệnh mới, nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi; các chương trình mục tiêu quốc gia được thực hiện hiệu quả. Việc bảo đảm thuốc, vật tư y tế, thiết bị y tế được quan tâm chỉ đạo sâu sát, cơ bản đáp ứng yêu cầu. Hoạt động khám chữa bệnh nhân đạo được tăng cường quản lý, chấn chỉnh
+ Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục phát triển và lan tỏa; việc đăng ký, bình xét các danh hiệu văn hóa được thực hiện kịp thời, đảm bảo đúng quy định. Năm 2024, toàn tỉnh có 577.677/614.771 hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa (đạt tỷ lệ 93,2%); 1.667/1.797 thôn, tổ dân phố, khu phố đạt danh hiệu Khu dân cư văn hóa (tỷ lệ 92,8%). Tỉnh đã tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 70 năm giải phóng Thị xã Thái Bình (30/6/1954 – 30/6/2024) và 20 năm xây dựng phát triển Thành phố Thái Bình. Tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động trực quan chào mừng kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024), 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2024); Ngày Dân số Việt Nam 26/12; Ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không 29/12...; tuyên truyền phục vụ các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Trên lĩnh vực thể dục thể thao: Năm 2024, toàn tỉnh có 36,8% dân số tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, 26,8 % số gia đình đạt danh hiệu gia đình thể thao. Tổ chức thành công nhiều giải thi đấu thể thao cấp tỉnh và phối hợp với các sở, ngành, địa phương tổ chức các giải thể thao, giao hữu thể thao chào mừng các ngày lễ, kỷ niệm của ngành, địa phương. Tổ chức tham gia giải Cầu lông, Bóng bàn gia đình toàn quốc đạt 01 HCB, 02 HCĐ; giải Cầu lông trung cao tuổi toàn quốc đạt 05 HCV, 01 HCB, 01 HCĐ và Nhất toàn đoàn; giải Khiêu vũ thể thao toàn quốc đạt 01 HCB, 01 HCĐ.
Tham gia thi đấu các giải thể thao thành tích cao quốc gia; nuôi dưỡng vận động viên thể thao thành tích cao; chỉ đạo Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao thực hiện tốt công tác quản lý vận động viên, duy trì việc giảng dạy, huấn luyện đảm bảo theo kế hoạch. Đã cử gần 100 lượt vận động viên đi tập huấn (Đua thuyền, Điền kinh, Wushu, Jiujitsu, Karate...); có 32 vận động viên các môn thể thao và 03 huấn luyện viên (Bóng chuyền, Cầu lông, Đua thuyền) được Cục Thể dục thể thao triệu tập tập trung đội tuyển quốc gia. Năm 2024, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao tỉnh tổ chức tập huấn cho các vận động viên tham gia thi đấu 44 giải quốc gia và 07 giải quốc tế, đạt 318 huy chương các loại gồm 103 HCV, 92 HCB, 123 HCĐ. Đội Bóng đá U11 tham dự vòng loại tại tỉnh Quảng Nam xếp thứ 3 bảng; đội Bóng chuyền nữ Geleximco Thái Bình tham gia giai đoạn 1 giải Bóng chuyền Vô địch quốc gia năm 2024 tại tỉnh Bình Phước xếp thứ 5/6 đội; tham dự giải Bóng chuyền Cúp Hoa Lư - Bình Điền (kết quả xếp thứ 4). Thải loại 30 vận động viên không có khả năng phát triển, tuyển bổ sung 40 vận động viên tập trung đào tạo kế cận.
d. Tai nạn giao thông
Theo báo cáo của Công an tỉnh Thái Bình, đến ngày 14/12/2024 toàn tỉnh xảy ra 371 vụ tai nạn giao thông, làm 211 người chết và 211 người bị thương.
e. Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Theo báo cáo từ Công an tỉnh, năm 2024 trên địa bàn tỉnh Thái Bình có 06 vụ cháy nổ trong đó số người bị thương là 03 người; thiệt hại về tài sản ước tính 1.218 triệu đồng.
Như vậy, trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước và chịu tác động bất lợi của nhiều yếu tố khách quan song kinh tế trên đia bàn tỉnh Thái Bình năm 2024 vẫn giữ đà tăng trưởng khá; Công tác điều hành phát triển kinh tế - xã hội được chỉ đạo thực hiện quyết liệt ngay từ đầu năm, chủ động, linh hoạt, có trọng tâm; triển khai thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chỉ đạo của Trung ương của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh; chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền và tổ chức triển khai kịp thời quy định pháp luật mới của nhà nước (Luật Đất đai, Luật Nhà ở...); ban hành các chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra; công tác thu ngân sách (thu nội địa) đạt cao tăng 12,8% so với cùng kỳ. Công tác giải ngân vốn đầu tư công tiếp tục đạt kết quả tốt; Thu hút đầu tư đạt kết quả tốt, là năm thứ 2 liên tiếp vốn FDI đạt trên 1,0 tỷ USD. Các lĩnh vực văn hóa xã hội có sự chuyển biến tích cực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và phục vụ tốt đời sống tinh thần của Nhân dân.
Các hoạt động văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ. An sinh xã hội được đảm bảo, đời sống của Nhân dân trong tỉnh cơ bản ổn định. Quốc phòng - an ninh được tăng cường, trật tự xã hội được giữ vững. Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, kiện toàn.
CỤC THỐNG KÊ TỈNH THÁI BÌNH