Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Nông nghiệp
Trồng trọt
Tình hình sản xuất lúa vụ mùa: Vụ mùa năm 2018, toàn tỉnh bước vào gieo cấy trong điều kiện thời tiết tương đối không thuận, nắng nóng gay gắt đã làm ảnh hưởng đến tiến độ gieo cấy của lúa mùa sớm; sau nắng nóng trong tháng 7/2018 đã xảy ra mưa lớn làm ngập úng tại một số huyện và những chân ruộng trũng úng của một số huyện như Kiến Xương, Thái Thụy, Tiền Hải, Thành phố…do đó một số diện tích của những huyện phải gieo cấy lại cũng bị kéo dài hơn so với kế hoạch khoảng từ 10-15 ngày.
Tổng diện tích lúa mùa toàn tỉnh đã gieo cấy lúa được 78.944 ha, đạt 99,12% so cùng kỳ. Cơ cấu giống lúa vụ mùa năm 2018 nhìn chung đã chuyển dịch theo hướng tích cực, giống lúa chất lượng cao chiếm khoảng 29,3% diện tích, giống lúa có năng suất cao chiếm 70% diện tích gieo cấy.
Vụ mùa năm 2018, mặc dù điều kiện thời tiết không thuận, sâu bệnh phát sinh rải rác trên diện rộng đặc biệt là xuất hiện bệnh lùn sọc đen với nguy cơ gây hại cao; song với sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo UBND tỉnh, sự vào cuộc của các ngành chức năng và các địa phương nên toàn bộ diện tích lúa vụ mùa đã được kiểm soát và toàn tỉnh đã khống chế thành công dịch bệnh. Đến thời điểm này toàn bộ những diện tích lúa cấy sớm đã thu hoạch xong, ước tính đến ngày 18/10/2018 toàn tỉnh đã thu hoạch được 50.774 ha, đạt trên 64,3% diện tích lúa mùa đã gieo cấy. Theo đánh giá của các ngành chức năng, sản xuất nông nghiệp vụ mùa năm 2018 là một vụ mùa được đánh giá thành công, năng suất lúa tuy chưa điều tra thống kê song có thể khẳng định cao hơn so với vụ mùa năm 2017 và có thể xấp xỉ đạt gần bằng năng suất lúa vụ mùa 2016.
Tình hình gieo trồng cây trồng hàng năm: Diện tích gieo trồng một số cây hoa màu tăng, giảm nhẹ so với cùng kỳ: diện tích gieo trồng ngô 2.645 ha, đạt 95,6%; đậu tương 953 ha, đạt 91,4%; khoai lang đạt 459 ha, tăng 9,6%; 375 ha lạc, tăng 6,4%; rau đậu, hoa cây cảnh đạt 11.693 ha tăng 12,6% so cùng kỳ năm trước… trong vụ thời tiết tương đối thuận lợi nên sản lượng một số loại cây trồng hàng năm nhất là rau màu có năng suất tăng cao hơn so cùng kỳ.
Về sản xuất vụ Đông: Tỉnh chỉ đạo các huyện, thành phố xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất vụ Đông, với phương châm lấy hiệu quả kinh tế để phát triển cây vụ Đông bền vững, mở rộng phát triển các cây trồng theo lợi thế của từng địa phương, tập trung vào các cây trồng có hợp đồng bao tiêu sản phẩm và có thị trường tiêu thụ ổn định cùng với đó là các chính sách hỗ trợ sản xuất cây vụ đông cũng được tỉnh quan tâm chỉ đạo tại Quyết định số 2426/QĐ-UBND ngày 27/9/2018.
Chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây vụ đông năm 2018 ở hầu hết các huyện được thực hiện theo hướng mở rộng diện tích những cây dễ trồng, cho thu nhập khá và có thị trường tiêu thụ ổn định; tiếp thu nhóm cây trồng mới mang lại hiệu quả kinh tế cao và tiếp thu giống mới cho năng suất, chất lượng cao để thay thế giống cũ đã thoái hoá. Hiện tại những diện tích lúa trà sớm thu hoạch xong cũng đã được các địa phương chỉ đạo để bà con trồng cây vụ đông ưa ấm như bí xanh, bí đỏ, dưa, ớt… đến thời điểm này với trên 20 nghìn ha cây vụ đông đã trồng đang phát triển tốt, bà con nông dân đang tích cực thu hoạch những diện tích lúa mùa còn lại để kịp gieo trồng cây vụ đông đúng thời vụ. Theo tiến độ sản xuất nông nghiệp, tính đến ngày 18/10/2018 diện tích cây vụ đông đã trồng là 20.120 ha đạt 55,9% kế hoạch đề ra (kế hoạch 36.000 ha), tương đương so với cùng kỳ năm trước. Trong đó diện tích ngô đã trồng 6.408 ha, dưa bí 4.482 ha, ớt đạt 1.165 ha, các loại cây rau màu khác 8.065 ha.
Chăn nuôi
Theo tổng hợp từ ngành chăn nuôi thú y, trong tháng 10/2018 đã phát hiện 01 ổ dịch cúm gia cầm A/H5N6 trên đàn vịt tại xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư làm chết và buộc phải tiêu hủy 5.647 con gia cầm (58 con gà, 5.588 con vịt). Các bệnh thông thường khác xảy ra rải rác trên đàn gia súc, gia cầm tại một số địa phương nhưng ở quy mô nhỏ lẻ, phân tán không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của ngành chăn nuôi.
Chăn nuôi gia súc: Trong tháng, tổng đàn trâu, bò vẫn phát triển tương đối ổn định ước đạt khoảng 51,5 nghìn con, tăng gần 0,7% so với tháng 9/2018 trong đó trâu tăng 0,1%, bò tăng trên 0,2%. Trong những tháng này nhìn chung thị trường tiêu thụ đã bắt đầu tăng nhẹ, giá bán ổn định nên tính chung 10 tháng sản lượng thịt trâu ước tính đạt 0,65 nghìn tấn, tăng gần 1,8% so cùng kỳ; bò ước đạt 6,5 nghìn tấn, tăng 2,3%
Chăn nuôi lợn: Tình hình chăn nuôi lợn đã khởi sắc hơn với các hoạt động tái đàn, quay trở lại nuôi tại các trang trại, gia trại của các địa phương trên toàn tỉnh. Tuy nhiên, số lượng đàn tăng vẫn ở mức cầm chừng do giá giống vật nuôi vẫn giữ ở mức cao. Giống lợn F1 có giá giao động ở mức bình quân từ 450.000-500.000 đồng/con; lợn F2, F3 từ 500.000 - 700.000 đồng/con; lợn siêu xách tai (7-10kg/con) có giá giao động trung bình từ 1.300.000-1.500.000đồng/con. Trong tháng giá bán lợn thịt tiếp tục ổn định và giữ ở mức cao; hiện tại giá thịt lợn hơi xuất chuồng đang giao động và duy trì ở mức 48.000 đồng/kg – 51.000 đồng/kg (tùy loại), đây là mức giá có lợi cho người chăn nuôi.
Ước tính thời điểm tháng 10/2018 tổng đàn lợn đạt 100,1 nghìn con, tăng 2% so cùng kỳ 2017; sản lương thịt hơi xuất chuồng ước đạt 1,69 nghìn tấn, tăng 0,67%, tính chung trong 10 tháng sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 169,1 nghìn tấn, tăng gần 1,3% so cùng kỳ.
Chăn nuôi gia cầm: Trong những tháng này số lượng đàn gia cầm có chiều hướng tăng do người dân tái đàn phục vụ cho các nhu cầu dịp cuối năm. Tuy nhiên, việc phát triển đàn gia cầm chủ yếu vẫn tại các hộ gia đình, các gia trại chăn nuôi nhỏ, còn tại các trang trại quy mô phát triển đàn vẫn chỉ ở mức duy trì hoặc tăng nhẹ.
Ước tính tổng đàn gia cầm toàn tháng 10/2018 tháng đạt 13,2 triệu con, tăng 2,9% so cùng kỳ; trong đó tổng đàn gà đạt 9,6 triệu con, tăng 3% so cùng kỳ. Sản lượng thịt gia cầm xuất chuồng trong tháng 10 ước đạt 3,8 nghìn tấn, tăng 2,7% so cùng kỳ và tăng trên 0,1% so với tháng 9. Tính chung 10 tháng sản lượng thịt gia cầm xuất chuồng đạt 43,6 nghìn tấn, tăng 2,3% so cùng kỳ; trong đó sản lượng gà xuất chuồng 10 tháng đạt 33,4 nghìn tấn, tăng 2,5%. Trong những tháng cuối năm này nếu không có biến động về tình hình dịch bệnh thì dự kiến số lượng đàn gia cầm nhất là số lượng và sản lượng gà xuất chuồng sẽ tiếp tục tăng mạnh do các hộ chăn nuôi đang chuẩn bị gà nuôi phục vụ nhu cầu thực phẩm vào dịp cuối năm.
Lâm nghiệp
Trong tháng các dự án trồng rừng phòng hộ tại các huyện ven biển đang tiếp tục khẩn trương thực hiện; tính đến thời điểm hiện tại đã triển khai trồng được 153,9 ha rừng tăng 19,3% so với cùng kỳ 2017; sản lượng gỗ, củi khai thác đang dần có xu hướng giảm do chủ yếu được khai thác từ cây lâm nghiệp trồng phân tán nên sản lượng không đáng kể; ước tính chung 10 tháng sản lượng gỗ khai thác 2.128m3, giảm 5% so cùng kỳ, sản lượng củi khai thác đạt 6.510 ste, giảm 1,5% so cùng kỳ. Tình hình chăm sóc, bảo vệ rừng được thực hiện tương đối tốt, diện tích rừng được bảo vệ là 4.032 ha, tăng 0,9% so cùng kỳ.
Trong những tháng cuối năm ngành lâm nghiệp tỉnh đang tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cộng đồng nâng cao ý thức bảo vệ và phát triển rừng bằng việc thực hiện có hiệu quả Tết trồng cây hàng năm, tuyên truyền nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân khi thấy được tác dụng to lớn của việc trồng và bảo vệ rừng.
Thủy sản
Sản xuất ngành thủy sản Thái Bình phát triển tương đối ổn định và duy trì ở mức cao so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác và nuôi trồng đều đạt sản lượng khá góp phần ổn định mức tăng trưởng khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản.
Khai thác
Trong tháng tình hình thời tiết nhìn chung tương đối tốt tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khai thác thủy hải sản của bà con ngư dân; tuy nhiên cũng có một số ít ngày do ảnh hưởng của những trận mưa lớn biển động nhiều tàu thuyền không thể ra khơi đánh bắt song cũng không ảnh hưởng nhiều đến sản lượng khai thác chung của toàn tỉnh. Hiện toàn tỉnh có tổng số 1.153 tàu, trong đó 1.028 tàu khai thác và 125 tàu dịch vụ. Ước tính tổng sản lượng khai thác thủy sản tháng 10 đạt hơn 6 nghìn tấn tăng 5,1% so với cùng kỳ; trong đó sản lượng khai thác biển đạt 5,6 nghìn tấn tăng 6,3% so cùng kỳ, sản lượng khai thác nội địa đạt 0,4 nghìn tấn giảm 0,1%; tính chung 10 tháng năm 2018 tổng sản lượng khai thác ước đạt 67,5 nghìn tấn, tăng 7,0% với cùng kỳ.
Nuôi trồng
Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản tính đến tháng 10 năm 2018 đạt 15.143 ha, tăng 1,8% so với năm 2017.
Tình hình nuôi trồng, đặc biệt là nuôi tôm nước lợ trong những tháng qua do thời tiết mưa nhiều người dân cũng gặp khó khăn trong việc đảm bảo độ mặn để nuôi nước lợ. Một số diện tích nuôi tôm công nghệ cao vụ 2 bị ảnh hưởng nên sản lượng của có giảm nhẹ so với vụ trước. Tuy nhiên đến thời điểm này tình hình dịch bệnh, thời tiết diễn biến tương đối ổn định nên việc nuôi trồng của bà con diễn ra cũng tương đối thuận lợi, thời điểm này tôm sú đang vào mùa thu hoạch rộ, tôm thẻ chân trắng đang tiếp tục nuôi thả vụ 2. Nhìn chung sản lượng nuôi trồng đạt ở mức khá, trong đó sản lượng tôm thẻ chân trắng năm nay cho năng suất cao hơn so với cùng kỳ.
Tổng sản lượng nuôi trồng trong tháng 10 ước đạt 13,4 nghìn tấn, tăng 7,9% so với cùng kỳ; trong đó sản lượng cá ước đạt 3,9 nghìn tấn, tăng 1,6%, tôm ước đạt 0,5 nghìn tấn, tăng 16,7%; sản lượng thủy sản khác ước đạt 10 nghìn tấn, tăng 9,9% so với cùng kỳ. Tính chung 10 tháng năm 2018 tổng sản lượng ước đạt 120,7 nghìn tấn, tăng 7,9% so với cùng kỳ. Trong đó cá đạt 32,7 nghìn tấn, tăng 1,6%, tôm đạt 2,4 nghìn tấn, tăng 13,2%; ngoài ra với thế mạnh của tỉnh là nuôi ngao bãi triều, sản lượng ngao trong 10 tháng ước đạt 85,4 nghìn tấn tăng 10,4% so với cùng kỳ.
Mô hình nuôi cá lồng vẫn tiếp tục phát triển tăng cả về quy mô và sản lượng, nhiều mô hình được đầu tư khá lớn về kinh tế cũng như kỹ thuật như tại một số hộ nuôi tại các huyện Quỳnh Phụ, Vũ Thư… Hiện toàn tỉnh có 55 hộ nuôi lồng bè với 530 lồng, thể tích đạt gần 55.155 m3, năng suất thu hoạch ước đạt 3,5 tấn/lồng đã góp phần vào kết quả tăng trưởng và phát triển của ngành thủy sản tỉnh Thái Bình.
Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 10/2018 tăng 6,7% so với tháng trước, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng đầu năm, IIP tăng hơn 14,3%; trong đó: ngành khai khoáng giảm 4,7%; ngành chế biến, chế tạo tăng 6,1%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng hơn 2 lần; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải tăng hơn 6,6%.
Trong 10 tháng năm 2018, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng khá so với cùng kỳ như: tôm đông lạnh ước đạt gần 611 tấn (+27,1%); sản phẩm sợi ước đạt trên 58 nghìn tấn (+17,4%); điện thương phẩm ước đạt 1.844 triệu KW (+17%); polyexter ước đạt trên 10 nghìn tấn (+80,3%); tăng mạnh nhất là sản phẩm sứ vệ sinh gắn cố định bằng gốm sứ ước đạt hơn 2 triệu sản phẩm, tăng hơn 2 lần so với cùng kỳ năm 2017; bao bì và túi bằng giấy nhãn ước đạt 7.255 nghìn chiếc tăng hơn 2 lần so với cùng kỳ (do Công ty bao bì Hương Sen, Công ty Thái Hiệp Hưng mở rộng sản xuất).
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tỉnh Thái Bình tháng 10 tăng hơn 1,7% so với tháng trước và tăng hơn 2,6% so với cùng kỳ.
Chỉ số tồn kho ngành chế biến, chế tạo tính đến tháng 10 tăng hơn 27,7% so với tháng trước và tăng gần 29% so cùng kỳ.
Chỉ số sử dụng lao động hiện đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/10/2018 tăng hơn 19,6% so với cùng thời điểm năm trước. Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 1%; doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 29,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 10,2%.
Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong 10 tháng năm 2018 đã cấp 621 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp với số vốn đăng ký đạt trên 2.772 tỷ đồng. Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động trong 10 tháng: 104 doanh nghiệp; doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 78 doanh nghiệp. Trong đó thu hồi GCN ĐKKD do DN giải thể là 77 doanh nghiệp
Đầu tư
Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước tháng 10/2018 ước tính đạt hơn 377 tỷ đồng tăng hơn 4,4% so với tháng trước, tăng hơn 21,6% so với cùng kỳ. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước gần 205 tỷ đồng tăng hơn 1,7% so với tháng trước và tăng 22,6% so với cùng kỳ năm trước; vốn ngân sách huyện ước trên 94 tỷ đồng có mức tăng lần lượt là 11,9% và tăng 38,1%; vốn ngân sách cấp xã ước đạt gần 78 tỷ đồng có mức tăng tương ứng 3,1% và 4,4%.
Ước tính 10 tháng, nguồn vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 2.494 tỷ đồng . Trong đó vốn ngân sách Nhà nước do tỉnh quản lý đạt trên 1.338 tỷ đồng giảm 5,3% so với cùng kỳ năm trước; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện 10 tháng ước đạt 558,7 tỷ đồng tăng hơn 7,6%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã ước đạt trên 597 tỷ đồng giảm 3,8% so với cùng kỳ.
Tình hình thực hiện một số dự án:
Trong tháng 10/2018 một số công trình dự án thực hiện vốn ngân sách sau:
Dự án cầu La Tiến nối 2 tỉnh Thái Bình – Hưng Yên đã thực hiện sơ bộ đạt 89 tỷ đồng bằng nguồn trái phiếu chính phủ; Dự án có tổng chiều dài 7,8km, trong đó cầu La Tiến dài hơn 1km, đường dẫn phía Thái Bình dài 5,6km, đường dẫn phía Hưng Yên dài 1,2km. Mặt cắt ngang cầu rộng 12m.
Dự án triển khai nhằm tạo thành tuyến đường xuyên suốt và nối liền hai tỉnh Thái Bình & Hưng Yên, kết nối các tuyến đường cao tốc và quốc lộ, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội, nối tuyến đê sông Luộc với quốc lộ 38B và quốc lộ 39. Với tổng mức đầu tư 680 tỷ đông, dự kiến đến tháng 6/2020 sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động.
Dự án công trình đường 216 huyện Hưng Hà (1,7 km) với mức đầu tư 56 tỷ đồng đến nay thực hiện được gần 41 tỷ đồng.
Dự án HTKT Khu dân cư, tái định cư Vũ Đông, vốn đầu tư gần 65 tỷ, dự kiến đạt 3,5 tỷ đồng.
Dự án khu QH dân cư, tái định cư Vũ Đông, vốn đầu tư gần 65 tỷ, dự kiến đặt 1,4 tỷ đồng.
Dự án HTKT khu dân cư tiếp giáp khu tái định cư Đồng Lôi, vốn đầu tư thực hiện gần 36 tỷ đồng, dự kiến đạt 1,1 tỷ đồng.
Dự án đường trục đến trung tâm huyện Quỳnh Phụ nối từ đường ĐT 396B đến đường ĐH.72, vốn đầu tư hơn 255 tỷ đồng, dự kiến đạt hơn 10 tỷ đồng.
Dự án đường vành đai phía Nam nút giao xã Vũ Đông đến nút giao QL10 Đông Mỹ tổng vốn đầu tư hơn 302 tỷ đồng, dự kiến thực hiện đạt 1,5 tỷ đồng.
Dự án nâng cấp đê, kè và đường cứu hộ, cứu nạn đê hữu Sông Trà Lý, tổng vốn đầu tư hơn 114 tỷ. dự kiến đạt 1,8 tỷ đồng.
Dự án đường vành đai phía Nam nút giao xã Vũ Đông đến cọc CS51, tổng vốn đầu tư hơn 264 tỷ đồng, dự kiến thực hiện đạt 900 triệu đồng.
Dự án xây dựng Chi cục thống kê huyện Kiến Xương đạt khoảng 75% tổng mức đầu tư đạt khoảng gần 1,3 tỷ đồng, thực hiện tháng 9 dự kiến đạt gần 1,2 tỷ đồng.
Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước ước tính 10 tháng 2018 đạt trên 14.196 tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nội địa ước đạt trên 4.920 tỷ đồng, tăng 0,9%; thu thuế xuất nhập khẩu ước đạt gần 1.068 tỷ đồng, tăng 23,8%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt 5.540 tỷ, tăng 21,3% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng chi ngân sách địa phương thực hiện 10 tháng năm 2018 ước đạt trên 9.552 tỷ đồng, tăng 11,6% so với cùng kỳ; trong đó: chi phát triển kinh tế ước đạt trên 3.9.5 tỷ đồng tăng 28,1%; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt gần 5.320 tỷ đồng, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước.
Thương mại, giá cả, vận tải và dịch vụ
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tháng 10/2018 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 3.477 tỷ đồng, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng gần 14% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Kinh tế Nhà nước ước đạt 58 tỷ đồng giảm 0.2% so với tháng trước và tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước; kinh tế Ngoài nhà nước ước đạt 3.418 tỷ đồng tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 1,5 tỷ đồng bằng cùng kỳ năm trước và tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ngành hàng: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 3.023,7 tỷ đồng tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 13,4% so với cùng kỳ; doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước đạt 262 tỷ đồng tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 13,3% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 191,8 tỷ đồng tăng 2,7% so với tháng trước và tăng 13% so với cùng kỳ. Chia theo nhóm ngành hàng thì ngành hàng tăng so với tháng trước như: Nhóm hàng may mặc ước đạt 121 tỷ đồng (+3%); nhóm ô tô các loại ước đạt 44 tỷ đồng (+2,3%); nhóm phương tiện đi lại ước đạt 193 tỷ đồng (+1,3%). Bên cạnh đó nhóm ngành hàng giảm như: nhóm ngành vật phẩm văn hóa, giáo dục ước đạt 29 tỷ đồng (-4%); nhóm nhiên liệu khác ước đạt 30 tỷ đồng (-2,8%).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 10 tháng năm 2018 ước đạt 33.272 tỷ đồng, tăng hơn 10,3% so với cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế nhà nước ước đạt 572,5 tỷ đồng tăng gần 15%; kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 32.685 tỷ đồng tăng 10,3%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 14,5 tỷ đồng tăng 8% so với cùng kỳ.
Theo ngành hàng: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 28.880 tỷ đồng, tăng 10,3%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành đạt 2.563 tỷ đồng, tăng 11,3%; doanh thu dịch vụ khác đạt trên 1.827 tỷ đồng tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2017.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa 10 tháng năm 2018 ước đạt 28.880 tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo loại hình kinh tế: kinh tế nhà nước ước đạt hơn 452 tỷ đồng, tăng gần 15,8%; kinh tế ngoài Nhà nước ước đạt 28.428 tỷ đồng, tăng gần 10,3%. Chia theo nhóm ngành hàng, các ngành hàng có tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước như: Nhóm xăng dầu ước đạt trên 4.488 tỷ đồng (+24,4%); nhóm gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 4.024 tỷ đồng (+16,2%); nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục ước đạt 263 tỷ đồng (+16,6%); nhóm đá quý, kim loại và sản phẩm ước đạt 451 tỷ đồng (+14,7%); nhóm hàng may mặc ước đạt 1.306 tỷ đồng (+12,6%); nhóm hàng lương thực, thực phẩm ước đạt 9.092 tỷ đồng (+11,8%). Bên cạnh đó nhóm ngành hàng giảm như: nhóm ngành hàng nhóm đồ dùng trang thiết bị gia đình ước đạt 3.674 tỷ đồng (-1,1%).
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu:
Tháng 10/2018, trị giá xuất khẩu ước đạt 146,2 triệu USD, tăng hơn 1% so với tháng trước và giảm 5,01 % so với cùng kỳ. Giá trị xuất khẩu tháng 10 giảm so với cùng kỳ năm trước do một số doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI có giá trị giảm so với tháng 10 năm 2017, chủ yếu những doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm may mặc như: Công ty Ivory (-30,2%); Công ty PSVina (-17,4%); Công ty EnterB (-53,5%); thép và phôi thép của công ty Sengly (-44,4%). Phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế Nhà nước ước đạt 0,25 triệu USD tăng 2% so với tháng trước, so với cùng kỳ năm trước giảm 52,3%; kinh tế tư nhân trị giá xuất khẩu ước đạt 75,4 triệu USD, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng hơn 5,5% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 70,4 triệu USD, tăng 1,4% so với tháng trước, giảm 13,9% so với cùng kỳ năm trước.
Trị giá xuất khẩu 10 tháng năm 2018 ước đạt 1.225 triệu USD tăng trên 7,3% so với cùng kỳ. Theo loại hình kinh tế: kinh tế nhà nước ước đạt 2,8 triệu USD giảm 47,4%, kinh tế tư nhân ước đạt 678 triệu USD tăng gần 13%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 544,1 triệu USD tăng 1,7%. Xuất khẩu 10 tháng tăng chủ các mặt hàng như: sản phẩm gốm, sứ (+50,8); sản phẩm mây, tre, cói và thảm (+33,6%); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (+31,3%); xơ, sợi dệt các loại (+24,8%)… Bên cạnh đó còn có một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm trước như: Sắt thép (-23,6%); giấy và các sản phẩm từ giấy (-16,3%); gỗ (-1%).
Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu tháng 10/2018 ước đạt 111,5 triệu USD; tăng trên 36% so với tháng trước và giảm 16,38% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị nhập khẩu tháng 10 tăng cao so với tháng 9 do tháng 9 chủ yếu do lượng xăng dầu nhập khẩu không phát sinh nhưng đến tháng 10 hoạt động nhập khẩu trở lại. Phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế Nhà nước ước đạt 0,24 triệu USD tăng gần 15% so với tháng trước và tăng 18 lần so với cùng kỳ. Kinh tế tư nhân trị giá nhập khẩu ước đạt 58,3 triệu USD tăng hơn 2 lần so với tháng trước và giảm 16,5% so với cùng kỳ; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 53 triệu USD tăng 0,1% so với tháng trước và giảm 16,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trị giá nhập khẩu 10 tháng năm 2018 ước đạt hơn 1.115,7 triệu USD tăng gần 14% so với cùng kỳ. Trong đó: loại hình kinh tế Nhà nước ước đạt 2,6 triệu USD, giảm 33,7%; kinh tế tư nhân đạt 585,9 triệu USD, tăng hơn 18%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 527,1 triệu USD, tăng trên 9,2%. Một số mặt hàng có giá trị nhập khẩu tăng so với cùng kỳ như: Chất dẻo nguyên liệu tăng 3,4 lần; hàng thủy sản tăng 2,2 lần; máy móc, thiết bị, phụ tùng khác tăng gần 2,5 lần; phế liệu sắt thép (+81,8%); nguyên phụ liệu dệt may (+14,1%), vải các loại (+4%)… Bên cạnh đó còn các mặt hàng nhập khẩu giảm mạnh như: sắt thép (-22,04%); xơ, sợi dệt (-8,5%); hóa chất (- 4,7%).
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2018 tăng 0,28% so với tháng trước (khu vực thành thị tăng 0,25%; khu vực nông thôn tăng 0,28%); tăng 3,82% so với tháng 12 năm 2017 và tăng 3,88% so với cùng tháng năm trước. 11 nhóm hàng cấu thành CPI đều có chỉ số tăng và tương đương so với tháng trước như: nhóm “hàng ăn và dịch vụ ăn uống” tăng 0,17%; nhóm “Giao thông” tăng 1,85%.... Một số nguyên nhân tác động đến chỉ số giá tháng 10 tăng so với tháng trước như: trong tháng 10 có 2 đợt điều chỉnh giá xăng vào ngày 07/10 và 23/10, giá gas tăng 10.000 đồng/bình vào ngày 01/10 đã tác động đến chỉ số giá nhóm “Giao thông”.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 10 tháng năm 2018 tăng 4,38% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có chỉ số tăng cao như: “hàng ăn và dịch vụ ăn uống” tăng 3,32%; “nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng” tăng 9,37%; “giáo dục” tăng 4,67%; “thuốc và dịch vụ y tế” tăng 9,61%... tuy nhiên một số nhóm hàng chỉ số tiêu dùng lại giảm như: “Bưu chính viễn thông” giảm 0,33%...
Vận tải và dịch vụ hỗ trợ
Vận tải hành khách
Tháng 10/2018, doanh thu vận tải hành khách ước đạt gần126 tỷ đồng tăng 0,9% so với tháng trước và tăng gần 21% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt hơn 1,5 triệu người tăng 6,2% so với tháng trước và tăng 16,1% so với cùng kỳ; số lượt khách luân chuyển ước đạt 173,9 triệu người.km, tăng 1,4% so với tháng và so với cùng kỳ năm trước tăng gần 21%.
Doanh thu vận tải hành khách 10 tháng năm 2018 ước đạt hơn 1.209 tỷ đồng tăng gần 14,2% so với cùng kỳ năm trước; số lượt khách vận chuyển ước đạt gần 16,3 triệu người tăng gần 16% so với cùng kỳ; số lượt khách luân chuyển ước đạt trên 1.869,3 triệu lượt.km tăng gần 20% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hóa
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 10/2018 ước đạt hơn 326,5 tỷ đồng, tăng hơn 2,1% so với tháng trước và tăng gần 10,4% so với cùng kỳ năm 2017. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 1.928,1 nghìn tấn, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng gần 14% so với cùng kỳ năm trước. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt hơn 841 triệu tấn.km, tăng trên 2% so với tháng trước, tăng 24% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu vận tải hàng hoá 10 tháng năm 2018 ước đạt 2.996 tỷ đồng tăng gần 12% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt gần 18 triệu tấn, tăng hơn 11,3%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 6.933 triệu tấn.km tăng gần 10,4% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải
Doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 10 năm 2018 ước đạt 3,5 tỷ tăng 4,1% so với tháng trước và giảm 2% so với cùng kỳ. Ước 10 tháng doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 33,8 tỷ đồng giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước.
Một số tình hình xã hội
Lao động và việc làm, trợ cấp xã hội và lĩnh vực người có công
Tháng 10/2017, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã cấp giấy phép lao động cho 30 lao động người nước ngoài đến làm việc tại các doanh nghiệp ở tỉnh (trong đó cấp lại giấy phép cho 14 lao động); quyết định thực hiện trợ cấp đối với 5.443 trường hợp hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Trong tháng, toàn tỉnh đã tạo việc làm mới cho 2.660 người (trong đó: việc làm tại địa phương 1.800 người, cung ứng đi làm việc tại tỉnh ngoài 700 người, xuất khẩu lao động cho 160 người).
Trong tháng 10/2018, có 4.480 lao động tham gia học nghề, trong đó: trình độ cao đăng 580 người, trình độ trung cấp 850 người, trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng 3.050 người.
Nhân dịp Tết Trung thu năm 2017, các huyện, thành phố đã tổ chức thăm hỏi, tặng 412.164 suất quà trẻ em trong toàn tỉnh với tổng giá trị trên 7 tỷ đồng.
Các đơn vị chức năng tiếp tục triển khai thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách đối với người và gia đình có công với cách mạng, cụ thể: Sửa đổi thông tin cá nhân trong hồ sơ NCC cho 08 trường hợp; giám định do sót vết thương cho 14 trường hợp; tiếp nhận thủ tục đề nghị công nhận liệt sĩ (Thương binh chết do vết thương tái phát) cho 01 trường hợp; giải quyết trợ cấp đối với vợ hoặc chồng liệt sỹ đi lấy chồng hoặc lấy vợ khác cho 03 trường hợp; tiếp nhận giải quyết chế độ đối với con đẻ của người Hoạt động kháng chiến bị nhiễm Chất độc hóa học cho 04 trường hợp; tiếp nhận giải quyết chế độ đối với người Hoạt động kháng chiến bị nhiễm Chất độc hóa học cho 75 trường hợp; thẩm duyệt hồ sơ đề nghị cấp thẻ bảo hiểm y tế 01 lượt thủ tục; giải quyết chế độ trợ cấp một lần tiền mai táng phí và trợ cấp 1 lần cho thân nhân NCC cho 03 trường hợp; di chuyển hồ sơ người có công đi tỉnh ngoài cho 15 trường hợp.
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS
Tình hình dịch bệnh:
Trong tháng 10/2018 toàn tỉnh có 36 trường hợp mắc sốt xuất huyết, giảm 659 trường hợp so với cùng kỳ năm 2017; viêm hô hấp cấp tính nặng nghi do vi rút: 05 trường hợp, tử vong 04 (tại các huyện Kiến Xương, Hưng Hà, Thái Thụy, Vũ Thư); Viêm não virus 15 trường hợp (01 ca dương tính với bệnh VNNB); Sốt phát ban nghi sởi 37 trường hợp (03 ca xét nghiệm dương tính); Tay chân miệng 346 trường hợp (tăng 192); ghi nhận 05 ổ dịch liên cầu lợn, tổng số mắc/chết là 11/03 và 06 trường hợp ho gà. Ngoài ra không ghi nhận các trường hợp mắc Cúm A(H7N9), A(H5N1), bệnh dại,…
Sở Y tế tăng cường củng cố, chỉ đạo hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống dịch; tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá, điều phối thường xuyên các hoạt động phòng, chống dịch, không để dịch bùng phát, lan rộng, kéo dài. Tổ chức phân công cán bộ trực dịch theo dõi, nắm tình hình dịch bệnh xảy ra trên địa bàn 24/24 giờ; thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo định kỳ và giám sát bệnh truyền nhiễm theo quy định của Bộ Y tế.
Tình hình HIV/AIDS
Toàn tỉnh hiện đang quản lý 3.337 người nhiễm HIV; 863 người bệnh là phụ nữ (25,9%); số bệnh nhân AIDS hiện còn sống là 1.453 người, ghi nhận 51 ca nhiễm HIV mới, 35 người chuyển AIDS và 04 người tử vong do AIDS được báo cáo, số xã, phường thị trấn phát hiện có người nhiễm HIV là 252/286;
Sở y tế tiếp tục duy trì tổ chức tiếp nhận và điều trị Methadone cho 1.287 người nghiện ma túy tại tất cả các cơ sở điều trị (Trung tâm PC HIV/AIDS: 176; Thành phố: 258; Đông Hưng: 109; Vũ Thư: 89; Quỳnh Phụ: 173; Hưng Hà: 138; Tiền Hải: 146; Kiến Xương: 83; Thái Thụy: 115).
Tổ chức điều trị ARV cho 1.229 bệnh nhân, tư vấn cho 73 trường hợp phơi nhiễm HIV và cấp thuốc phơi nhiễm cho 15 trường hợp, kê đơn thuốc điều trị cho 38 trường hợp phơi nhiễm.
Văn hoá - Thể thao
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch triển khai các hoạt động thông tin tuyên truyền phục vụ các nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ kỷ niệm, tổ chức thành công lễ khai mạc Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Thái Bình lần thứ VIII và ngày hội Văn hoá - Thể thao truyền thống 14/10. trao giấy chứng nhận đưa vào danh sách di vật sản văn hoá di vật thể quốc gia với lạo hình nghệ thuật trình diễn nghệ thuật dân gian của nghệ thuật múa rối nước ở xã Nguyên Xá và Đông Các huyện Đông Hưng, đối với loại hình lễ hội truyền thống lễ hội làng Thượng Liệt xã Đông Tân huyện Đông Hưng, trao bằng di tích cấp quốc gia đối với Đình Hòa, xã Hòa Tiến huyện Hưng Hà, bằng công nhận xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh cho 17 di tích.
Các đơn vị chức năng tổ chức thành công giải bóng đá công nhân lao động các khu công nghiệp, Quần vợt tranh cúp hữu nghị lần thứ VII – Đại hội thể thao tỉnh Thái Bình lần thứ VIII năm 2018.
Trung tâm Huấn luyện thể dục thể thao tổ chức tập huấn và tham gia thi đấu giải Việt dã báo Hà Nội mở rộng lần thứ 45 – Vì Hòa Bình năm 2018 và đua thuyền vô địch trẻ toàn quốc đạt 05 HCV, 02 HCB, 01 HCĐ.
Tình hình cháy nổ và phòng chống thiên tai
Tháng 10 năm 2018, tỉnh Thái Bình đã xảy ra 07 vụ cháy (Thành phố Thái Bình xảy ra 5 vụ, huyện Đông Hưng 1 vụ và huyện Kiến xương 1 vụ) ước thiệt hại về tài sản ước tính 48 triệu đồng. Không có thiệt hại về người.
An toàn giao thông
Theo báo cáo của Ban an toàn giao thông từ ngày 16/9 đến ngày 15/10/2018 trên địa bàn tỉnh xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 9 người chết và 6 người bị thương./. |
|
|