Năm 2020 trên thế giới đại dịch COVID-19 bùng phát và lan rộng khiến phần lớn các quốc gia rơi vào suy thoái. Nhiều nền kinh tế phát triển được dự đoán sẽ tăng trưởng âm trong năm 2020 do tăng cường áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội, thắt chặt các điều kiện tài chính và nhu cầu ngoài nước giảm mạnh. Tại Việt Nam, trong tháng 6 năm 2020 Ngân hàng Thế giới đã đưa ra những nhận định tích cực và lạc quan về tình hình kinh tế vĩ mô: doanh số bán lẻ phục hồi mạnh, vận tải hành khách và hàng hóa lần lượt phát triển so với tháng trước nhờ các biện pháp hạn chế đi lại trong nước được từng bước nới lỏng từ ngày 23/4… tuy vậy, nền kinh tế có tính mở hội nhập ngày càng sâu rộng, phụ thuộc nhiều vào việc giao thương, cung ứng nguyên vật liệu đầu vào, thị trường tiêu thụ do vậy các hoạt động kinh tế khó giữ được tăng trưởng so với thời kỳ trước COVID- 19.
Sáu tháng đầu năm 2020, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh có nhiều biến động, dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19 đang diễn biến phức tạp, tình hình kinh tế tuy đã phần nào hồi phục nhưng vẫn còn ở mức chậm… Tuy nhiên với sự chỉ đạo quyết liệt của Lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng năm 2020 đã có nhiều chuyển biến tích cực: hoạt động chăn nuôi có nhiều khả quan do dịch tả lợn châu Phi đã được đẩy lùi; các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh sau giãn cách xã hội được triển khai quyết liệt… Tình hình kinh tế tỉnh Thái Bình thể hiện qua các mặt sau:
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất của khu vực nông, lâm, thủy sản 6 tháng đầu năm 2020 không chịu ảnh hưởng nhiều của dịch Covid-19 do các yếu tố đầu vào chủ yếu được cung cấp từ thị trường nội địa, sản phẩm đầu ra tiêu thụ trong nước là chính. Dịch tả lợn Châu Phi đã được kiểm soát, số lượng tái đàn đã có biến động tăng nhưng vẫn còn chậm. Sản xuất thủy sản duy trì mức tăng ổn định cả về nuôi trồng và khai thác.
Nông nghiệp
Trồng trọt
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ đông xuân 2020 đạt 127.300 ha, giảm 0,7% so với vụ đông xuân 2019; trong đó: diện tích gieo trồng vụ đông đạt 36.278 ha, tăng 0,4% so với vụ đông năm trước; diện tích gieo trồng vụ xuân đạt 91.022 ha, giảm 1,1% so với vụ xuân 2019.
Sản xuất lúa: Vụ lúa đông xuân năm 2020 toàn tỉnh gieo cấy đạt 76.252 ha, giảm 1.337 ha, (-1,7%) so với vụ đông xuân năm 2019. Các huyện, thành phố trong tỉnh hầu hết có diện tích gieo cấy lúa giảm so với năm trước như: huyện Tiền Hải 210 ha, Kiến Xương 155 ha; Hưng Hà 119 ha, Thái Thụy 115 ha… Nguyên nhân do các địa phương chuyển đổi cơ cấu sản xuất và mục đích sử dụng đất; trong đó chuyển 600 ha sang đất phi nông nghiệp; 384 ha sang trồng cây hàng năm, cây lâu năm; 21 ha sang nuôi trồng thủy sản; phần còn lại là không canh tác.
Sản xuất lúa đông xuân năm nay diễn ra trong điều kiện thời tiết ấm, công tác điều tiết nước đã đáp ứng kịp thời thuận tiện cho việc làm đất và gieo cấy lúa xuân. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của thời tiết trong tháng 3 và đầu tháng 4 mưa, nắng bất thường, nhiệt độ thay đổi lên xuống, đặc biệt trong giai đoạn lúa làm đòng, trỗ bông thời tiết ít mưa, nhiệt độ cao ảnh hưởng đến sự phát triển của cây lúa và độ mẩy của hạt, bông ngắn. Bên cạnh đó, một số diện tích lúa bị sâu bệnh, nhất là hiện tượng đạo ôn hại cổ bông làm lúa bị lép, giảm số hạt trên bông, phần nào cũng bị ảnh hưởng đến năng suất.
Tuy diện tích gieo cấy lúa xuân giảm song các địa phương đã chỉ đạo thực hiện tốt đề án sản xuất của tỉnh. Cơ cấu giống lúa toàn tỉnh đã dần chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa có giá trị cao; các giống lúa thuần năng suất cao như TBR225,Thiên ưu 8, TBR1…có xu hướng giảm dần đạt 44.079 ha, chiếm 57,8% diện tích; các giống lúa chất lượng gạo ngon đã đạt 28.241 ha, chiếm 37,0% diện tích và tăng 7,6% so cùng kỳ; các giống khác 3.932 ha, chỉ chiếm 5,2% diện tích.
Ước tính năng suất lúa vụ xuân năm 2020 đạt khoảng 70,6 tạ/ha, giảm nhẹ so với vụ xuân 2019; sản lượng ước đạt 538,3 nghìn tấn, giảm khoảng 15 nghìn tấn so với cùng kỳ. Mặc dù sản lượng thóc chung giảm song cơ cấu diện tích lúa chất lượng gạo ngon tăng 7,6%, đã góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng giá trị sản xuất của sản phẩm lúa toàn tỉnh.
Sản xuất rau màu: Tổng diện tích gieo trồng các loại cây màu vụ đông xuân 2020 đạt 51.047 ha, tăng 1,0% so cùng kỳ; trong đó diện tích gieo trồng cây rau màu vụ xuân đạt 14.770 ha, tăng 2,4% so với vụ xuân năm 2019. Một số cây trồng chủ lực năm nay có diện tích giảm do thời gian đầu tư dài, bà con không trồng như: diện tích Ngô đạt 8.450 ha, tương đương vụ xuân 2019; diện tích các loại cây lấy củ có chất bột đạt 6.318 ha, giảm 7,7%; Diện tích các loại cây có hạt chứa dầu (đậu tương, lạc, vừng...) đạt 2.863 ha, giảm 10,1%, trong đó diện tích đậu tương giảm 13,9%, lạc giảm 7,6%... Tuy nhiên nhóm diện tích rau, đậu, hoa các loại phát triển tương đối tốt, một số vùng trồng rau chuyên canh tại huyện Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Thái Thụy, Vũ Thư bà con nông dân đã thực hiện việc quay vòng đất tương đối hiệu quả, nhiều mô hình trồng rau đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Diện tích gieo trồng rau, đậu, hoa các loại đạt 30.049 ha, tăng 4,9%, trong đó diện tích rau các loại đạt 28.968 ha, tăng 5,6% so với cùng kỳ.
Ước tính sản lượng lương thực có hạt vụ đông xuân gồm (lúa, ngô, kê…) đạt 586,7 ngàn tấn, giảm 14,9 ngàn tấn (-2,5%) so với cùng kỳ năm trước. Đối với rau màu thời tiết năm nay cũng cơ bản thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển, không bị ảnh hưởng nhiều bởi sâu bệnh vì vậy năng suất rau vụ đông xuân các loại (gồm rau ăn lá, rau lấy quả…) ước đạt bình quân trên 230tạ/ha, tăng 4,7% so cùng kỳ, sản lượng đạt 671 ngàn tấn, tăng 10,5% so với cùng kỳ.
Diện tích cây lâu năm hiện có ước đạt 8.141ha, giảm 0,8% so với cùng kỳ; trong đó, diện tích nhóm các loại cây ăn quả đạt 5.797 ha, tăng 0,2%; diện tích nhóm cây gia vị, dược liệu đạt 928 ha, tăng 4,2%; diện tích cây lâu năm khác bao gồm cả cây cảnh quất, đào và cây cảnh khác đạt 1.250 ha, giảm 8,0% so cùng kỳ.. Trong 6 tháng đầu năm hầu hết các loại cây ăn quả đều được mùa cho năng suất khá, sản lượng tăng so với cùng kỳ như: chuối đạt 44.480 tấn, tăng 1,1%; thanh long đạt 429 tấn, tăng 2,0%; cam đạt 763 tấn, tăng 8,3%; vải đạt 3.830 tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ.
Chăn nuôi:
Chăn nuôi gia súc: Chăn nuôi trâu, bò đã có sự biến động tăng do các địa phương đang quyết liệt thực hiện đề án phát triển đàn trâu, bò thương phẩm theo chuỗi liên kết giai đoạn 2019 - 2025 và những năm tiếp theo nhằm chuyển đổi cơ cấu ngành chăn nuôi đưa trâu, bò trở thành một trong những đối tượng vật nuôi chủ lực trên địa bàn tỉnh. Ước tính đến hết tháng 6/2020 đạt 56,2 nghìn con, tăng 3,17% so cùng kỳ; trong đó tổng đàn trâu 6,3 nghìn con, tăng 3,98%; tổng đàn bò đạt 49,7 nghìn con tăng 3,01% so cùng kỳ.
Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng tháng 6/2020 ước đạt 881 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng quý II/2020 ước đạt 2.425 tấn, giảm 3,3% so với quý trước và giảm 5,0% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020 sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng ước đạt 4.932 tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ (riêng sản lượng thịt bò do Công ty TNHH MTV chăn nuôi Việt Hùng sản xuất đạt 1.148 tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ).
Chăn nuôi lợn: Hiện tại, đàn lợn đang được phục hồi sau dịch tả lợn Châu Phi, tuy nhiên việc tái đàn tại các địa phương trong tỉnh vẫn còn chậm so với kỳ vọng bởi sau một thời gian dài bị ảnh hưởng bởi bệnh dịch tả lợn châu Phi, hiện người chăn nuôi nhất là các hộ chăn nuôi nhỏ chưa thể tái đàn ngay do tâm lý còn lo ngại dịch có thể quay trở lại, hơn nữa giá lợn giống tăng cao và khan hiếm.
Ước tính tổng đàn lợn tại thời điểm tháng 6/2020 đạt 680,4 nghìn con (bao gồm cả lợn con chưa tách mẹ), tăng 23,75% so cùng kỳ; trong đó, lợn thịt 452,3 nghìn con, tăng 14,65%. Tuy tổng đàn có biến động tăng do bà con chăn nuôi đã bắt đầu tái đàn song sản lượng thịt hơi xuất chuồng vẫn giảm do số lượng đàn lợn đưa vào nuôi chưa đủ thời gian xuất bán. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tháng 6/2020 ước đạt 12,3 nghìn tấn, giảm 18,5% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý II/2020 ước đạt 36,0 nghìn tấn, giảm 4,6% so với quý trước và giảm 18,8% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020 sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 73,7 nghìn tấn, giảm 12,1% so với cùng kỳ 2019.
Chăn nuôi gia cầm: Nhiều hộ trang trại, gia trại đã chuyển từ chăn nuôi lợn sang chăn nuôi gia cầm để bù đắp chi phí thua lỗ trong nuôi lợn và duy trì quy mô chuồng trại đã xây.Tuy nhiên số lượng đàn gia cầm trong những tháng gần đây có phần chững lại do thời tiết nắng nóng bất thường, giá các mặt hàng thịt gia cầm có xu hướng giảm vì sản xuất số lượng lớn bị ép giá, khó bán nên các hộ chăn nuôi cũng phần nào hạn chế tăng đàn. Tổng đàn gia cầm tại thời điểm tháng 6/2020 ước đạt 13,6 triệu con, tăng 0,8%; trong đó đàn gà ước đạt 9,8 triệu con, tăng 1,5% so với cùng kỳ.
Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng tháng 6/2020 ước đạt 3,0 nghìn tấn tăng 1,6% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý II/2020 ước đạt 10,3 nghìn tấn, giảm 33,3% so với quý trước và giảm 10,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020 sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 25,8 nghìn tấn, tăng 3,9% so với cùng kỳ; trong đó, sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng đạt 19,2 nghìn tấn, tăng 5,0%; sản lượng trứng gia cầm đạt 156,5 triệu quả, tăng 2,6% so với cùng kỳ 2019.
Lâm nghiệp
Trong 6 tháng đầu năm 2020 đã trồng mới được 20,69 ha rừng phòng hộ, tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ năm 2019. Sản lượng gỗ và củi khai thác 6 tháng đầu năm 2020 giảm so với cùng kỳ (sản lượng gỗ khai thác đạt 1.179 m3, giảm 2,1%; sản lượng củi khai thác đạt 4.115 ste, giảm 2,5%) do trên địa bàn tỉnh chủ yếu là cây phân tán nên sản lượng gỗ, củi khai thác rất hạn chế và dần có xu hướng cạn kiệt. Dịch vụ ươm giống cây lâm nghiệp đã phát triển ổn định tại 3 doanh nghiệp và một số hộ cá thể của 2 huyện ven biển, ước tính 6 tháng đầu năm 2020 số cây lâm nghiệp được ươm giống đạt 528 nghìn cây, giảm 2,1% so với cùng kỳ.
Thuỷ sản
Sản xuất thủy sản tiếp tục phát huy thế mạnh về khai thác và nuôi trồng thủy sản ven biển, duy trì các mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghê cao.
Tổng sản lượng thủy sản tháng 6/2020 ước đạt 20,0 nghìn tấn, tăng 5,5% so với cùng kỳ. Tổng sản lượng thủy sản quý II/2020 ước đạt 59,9 nghìn tấn, tăng 0,9% so với quý trước và tăng 5,5% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020 tổng sản lượng thủy sản ước đạt 119,2 nghìn tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ.
Khai thác
Trong những tháng đầu năm, thời tiết tương đối ổn định cho hoạt động khai thác biển. Tuy có một số ngày bị ảnh hưởng của những trận mưa lớn biển động một số tàu thuyền không thể ra khơi đánh bắt song cũng không ảnh hưởng nhiều đến sản lượng khai thác chung của toàn tỉnh.
Sản lượng khai thác tháng 6/2020 ước đạt 8,3 nghìn tấn, tăng 6,3% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 5,0 nghìn tấn, tăng 5,9%; tôm đạt gần 0,2 nghìn tấn, tăng 2,6%; thủy sản khác đạt 3,1 nghìn tấn, tăng 7,3% so với cùng kỳ. Sản lượng khai thác quý II/2020 ước đạt 24,8 nghìn tấn, tăng 1,7% so với quý trước và tăng 5,8% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 15,4 nghìn tấn, tăng 1,1% so với quý trước và tăng 5,9% so với cùng kỳ; tôm đạt trên 0,4 nghìn tấn, tăng 30,4% so với quý trước và tăng 3,8% so với cùng kỳ; thủy sản khác đạt 9,0 nghìn tấn, tăng 1,6% so với quý trước và tăng 5,6% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020 sản lượng khai thác ước đạt 49,2 nghìn tấn, tăng 5,7% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 30,6 nghìn tấn, tăng 6,2%; tôm đạt 0,8 nghìn tấn, tăng 3,7%; thủy sản khác đạt 17,8 nghìn tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ.
Nuôi trồng
Sản lượng nuôi trồng thủy sản tháng 6/2020 ước đạt 11,7 nghìn tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 3,4 nghìn tấn, tăng 4,2%; tôm đạt 0,3 nghìn tấn, tăng 11,0%; thủy sản khác đạt 8,0 nghìn tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng quý II/2020 ước đạt 35,1 nghìn tấn, tăng 0,4% so với quý trước và tăng 5,3% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 9,7 nghìn tấn, tăng 16,0% so với quý trước và tăng 3,9% so với cùng kỳ; tôm đạt gần 0,7 nghìn tấn, tăng hơn 2 lần so với quý trước và tăng 7,7% so với cùng kỳ (do nuôi tôm nước lợ đang bắt đầu vào mùa thu hoạch); thủy sản khác đạt 24,7 nghìn tấn, giảm 5,9% so với quý trước nhưng tăng 5,7% so với cùng kỳ.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2020 sản lượng nuôi trồng ước đạt 70,0 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ; trong đó cá đạt 18,0 nghìn tấn, tăng 4,1%; tôm đạt gần 1,0 nghìn tấn, tăng 11,5%; thủy sản khác đạt 51,0 nghìn tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ. Riêng sản lượng ngao ước đạt 49,4 nghìn tấn, tăng 5,4% so với cùng kỳ. Hiện một số bãi nuôi ngao đang bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm môi trường, một số bãi gần cửa sông được bồi đắp phù sa làm cho bãi cao nên khó khăn trong việc nuôi ngao. Vì vậy người dân đang cần có những chính sách hỗ trợ của tỉnh để giải quyết những khó khăn đang gặp phải.
Sản xuất giống thủy sản vẫn tiếp tục được duy trì, số lượng giống thủy sản 6 tháng đầu năm ước đạt 595 triệu con, tăng 5,9% so với cùng kỳ; trong đó số lượng tôm sú đạt 3,3 triệu con, giảm 0,3%; ngao giống đạt 335 triệu con, tăng 9,8%..
Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 6/2020 ước tăng 8,5% so với tháng trước và giảm 8% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) quý II năm 2020 ước bằng 93,7% so quý trước và bằng 86,2% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) 6 tháng đầu năm 2020 ước bằng 98% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành sản xuất và phân phối khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí có chỉ số tăng khá mạnh 23,6%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải cũng tăng 5,2% so với cùng quý năm trước.
Sáu tháng đầu năm 2020, một số sản phẩm công nghiệp tăng như: phụ tùng khác của xe có động cơ ước đạt 289 nghìn cái, tăng hơn 8 lần so với cùng kỳ; túi khí an toàn ước đạt 403 nghìn cái, tăng hơn 6 lần; dịch vụ tráng phủ kim loại bằng cách nhúng vào kim loại ước đạt 28.722 triệu đồng, tăng 44,2%; thức ăn cho gia súc ước đạt 42.632 tấn, tăng 31,1%; thức ăn cho gia cầm ước đạt 38.855 tấn, tăng 28,2% so với cùng kỳ. Bên cạnh đó cũng có một số sản phẩm trong 6 tháng giảm so cùng kỳ do ảnh hưởng nặng nề trong khoảng 04 tháng đầu tâm điểm dịch covid như: sản phẩm bia dạng lon ước đạt 16.230 nghìn lít, giảm 38,4%; tàu đánh bắt thủy hải sản, các loại tàu chuyên dụng ước đạt 18.019 triệu đồng, giảm 35,6%; sản phẩm sứ vệ sinh ước đạt 1.593 nghìn cái, giảm 34,4% so với cùng kỳ năm 2019.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6 năm 2020 giảm gần 2% so với tháng trước và giảm gần 18% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số tồn kho ngành chế biến, chế tạo tính đến tháng 6 năm 2020 tăng hơn 6,6% so với tháng trước và tăng hơn 25,1% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/6/2020 giảm 6,6% so với cùng thời điểm năm trước. Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng gần 2%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 11%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 1,6% so với cùng kỳ năm 2019.
Xu hướng sản xuất kinh doanh quý II năm 2020 so với quý I năm 2020 số doanh nghiệp giữ nguyên chiếm 36,2%, khó khăn hơn chiếm 50,92%, tốt lên chỉ đạt 12,88%, chia theo hình thức sở hữu: Doanh nghiệp nhà nước tình hình sản xuất kinh doanh giữ nguyên chiếm 83,33%, khó khăn hơn chiếm 16,7%. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh giữ nguyên chiếm 32,0%, khó khăn hơn chiếm 55,7%, và tốt lên chỉ chiếm 12,3%. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tình hình sản xuất giữ nguyên chiếm 42,86%, khó khăn hơn chiếm 40%, và tốt lên cũng chiếm 17,1%. So sánh xu hướng sản xuất kinh doanh quý I năm 2020 so với quý II năm 2020: tốt lên chiếm tỷ lệ 77,3%, giữ nguyên chiếm 60,1%: doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tốt lên chiếm tỷ lệ 71,4%, doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ 66,7%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ 56,6%.
Đầu tư
Tháng 6/2020 vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt trên 400 tỷ đồng, tăng 13,7% so với tháng trước, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2019. Trong 6 tháng đầu năm 2020, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 1.877,4 tỷ đồng, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước đạt 980,2 tỷ đồng, tăng 2,9% so với cùng kỳ; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 408,3 tỷ đồng, tăng 8,4 so so với cùng kỳ; vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước đạt trên 488,8 tỷ đồng tăng 9,5% cùng kỳ năm 2019.
Trong 6 tháng đầu năm, rất nhiều dự án công trình trọng điểm của tỉnh được tiếp tục triển khai, tuyến đường bộ ven biển, dự án cầu Sông Hóa Hải Phòng Thái Bình, Dự án khu công nghiệp sản xuất nông nghiệp của tập đoàn Thaco; một số dự án lớn được triển khai xây dựng: Dự án mở rộng sản xuất của công ty Cotec, Công ty Maxsteel, molatec; Dự án sản xuất đồ gỗ của Công ty Fortress tại Thái Thụy, Dự án Nhà máy sản xuất dụng cụ thể thao của Công ty Mia tại Vũ Thư, Dự án nhà máy giày da của công ty leader Win Deverlopment tại Vũ Thư… Tình hình ảnh hưởng dịch bệnh Covid, đến ngày 11/6, bệnh nhân nhiễm Covid-19 cuối cùng điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh được công bố khỏi bệnh và xuất viện. Như vậy, đến nay 7/7 bệnh nhân nhiễm Covid-19 điều trị tại Thái Bình đã được điều trị khỏi. Trên địa bàn tỉnh hiện không còn bệnh nhân dương tính với Covid-19; tuy nhiên, ảnh hưởng dịch bệnh trên toàn cầu vẫn rất lớn, việc hạn chế đi lại và yêu cầu cách ly nghiêm ngặt phòng tránh lây nhiễm làm ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình triển khai, thi công của các dự án FDI trên địa bàn: Công ty TNHH Đỉnh Lực dự kiến lắp đặt máy móc sản xuất từ tháng 3, nhưng đến nay vẫn chưa hoạt động sản xuất được do chưa có chuyên gia sang lắp đặt hệ thống máy móc sản xuất, dự án cơ sở hạ tầng Công ty khai phát Đài Tín cụm công nghiệp Thái Thọ chưa được phê duyệt xây dựng cơ sở hạ tầng.
Một số dự án trọng điểm thi công trong quý II năm 2020:
Dự án nhà làm việc của công ty CP Giống Cây Trồng, vốn đầu tư hơn 203 tỷ, dự kiến thực hiện quý II đạt 20 tỷ đồng;
Dự án xây dựng trung tâm công nghệ cao sản xuất và trồng cây an toàn của công ty Toan Vân, vốn đầu tư hơn 92 tỷ, dự kiến quý II đạt 8 tỷ;
Dự án nhà xưởng sản xuất công ty Cotec, vốn đầu tư hơn 425 tỷ đồng, dự kiến quý II đạt 106 tỷ đồng;
Dự án nhà xưởng sản xuất công ty Molatec, vốn đầu tư hơn 38 tỷ đồng, dự kiến quý II đạt 10 tỷ đồng;
Dự án XD văn phòng làm việc và kho chứa sản phẩm của công ty XK Tiền Phong, vốn đầu tư 85 tỷ, dự kiến quý II đạt 45 tỷ;
Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng cụm Công nghiệp Thụy Sơn xã Thụy Sơn của Công ty TNHH ĐTPT & XD Việt Hà, vốn đầu tư 120 tỷ, dự kiến đạt gần 12 tỷ;
Dự án xây dựng công ty TNHH khoa học kỹ thuật hoạt hình Firtunion: Nhà máy sản xuất sản phẩm hoạt hình thông minh cho trẻ em, vốn đầu tư 348 tỷ, dự kiến đạt 67 tỷ;
Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng cụm công nghiệp Thái Dương của công ty CP Thịnh Vượng TVT, vốn đầu tư hơn 383 tỷ, dự kiến quý II đạt gần 17 tỷ;
Dự án xây dựng Hạ tầng khu dân cư cánh đồng miễu Thụy Hà của công ty CP Đại Dương, vốn đầu tư vốn đầu tư 170 tỷ, dự kiến quý II đạt gần 53 tỷ;
Dự án nhà xưởng sản xuất của Công ty may Hàn Quốc tại Hưng Hà, vốn đầu tư 45 tỷ, dự kiến quý II đạt 20 tỷ đồng;
Dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất sợi và khăn bông xất khẩu tại cụm CN Tân Minh của công ty TNHH XNK Coyato, vốn đầu tư 361 tỷ, thực hiện quý II đạt 33 tỷ;
Dự án nhà xưởng của công ty nông sản Phúc Huy, vốn đầu tư 60 tỷ, dự kiến quý II đạt 8 tỷ; Dự án nhà xưởng sản xuất của công ty CP tập đoàn Đông Đô, vốn đầu tư 353 tỷ đồng, dự kiến quý II đạt 20 tỷ;
Dự án nhà xưởng sản xuất của công ty CP Giang Sơn Thái Bình tại huyện Kiến Xương, vốn đầu tư 665 tỷ đồng, dự kiến quý II đạt 32 tỷ đồng; Dự án nhà xưởng sản xuất của công ty Da giầy Thành Phát, vốn đầu tư 85 tỷ, dự kiến quý II đạt gần 9 tỷ đồng.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
Quý II năm 2020 vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 12.260 tỷ đồng, tăng 17% so với quý trước và tăng 8% so với cùng kỳ. Vốn đầu tư toàn xã hội 6 tháng đầu năm 2020 theo giá hiện hành ước đạt 22.782 tỷ đồng, tăng gần trên 9,3% so với cùng kỳ năm 2019 và bằng 54% so với GRDP. Trong đó: Vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước ước đạt 1.877 tỷ đồng, giảm 4,8%; vốn đầu tư của tư nhân và dân cư ước đạt 15.004 tỷ đồng, tăng 8,4%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 1.405 tỷ đồng, tăng 19,8%; vốn huy động khác ước đạt 485 tỷ đồng, giảm 8,7% so cùng kỳ năm 2019.
Theo báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư, tính đến đầu tháng 6 năm 2020 đã cấp 308 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, 28 chi nhánh, 7 văn phòng đại diện với số vốn đăng ký đạt trên 2.974 tỷ đồng. Xác nhận Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động:147 doanh nghiệp; doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là 30 doanh nghiệp. Trong đó thu hồi GCN ĐKKD do DN giải thể là 30 doanh nghiệp.
Trong tháng 6 năm 2020 số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới phát sinh 01 dự án đến từ nhà đầu tư Thái Lan với số vốn đầu tư 23.710 nghìn USD. Tính đến thời điểm này có 5 dự án với tổng vốn đầu tư trên 48.821 nghìn USD, với mục đích đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo. Hình thức đầu tư là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài từ các nước Hàn Quốc và Hồng Kông, Trung Quốc và Thái Lan.
Hoạt động dịch vụ
Trong 6 tháng đầu năm do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, tác động đến nhiều ngành kinh tế, nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể phải tạm dừng hoạt động, thu hẹp quy mô sản xuất. Hầu hết các chỉ tiêu thương mại, dịch vụ ước quý II năm 2020 đều giảm so với quý I năm 2020 và giảm so với cùng kỳ năm trước.
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tháng 6/2020 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 3.850 tỷ đồng, tăng 4,5% so với tháng trước và tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước quý II năm 2020 đạt 10.800 tỷ đồng, giảm 9% so với quý trước và giảm 1,7% so với cùng quý năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước 6 tháng đầu năm 2020 đạt 22.651 tỷ đồng, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Theo ngành kinh tế: Doanh thu thương nghiệp ước đạt 19.867 tỷ đồng, tăng 4,9% so với cùng kỳ; còn lại các dịch vụ khác đều giảm: doanh thu dịch vụ khác ước đạt 1.412 tỷ đồng, giảm 0,4% so với cùng kỳ; doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú giảm 24%; doanh thu dịch vụ ăn uống giảm 20%; doanh thu du lịch lữ hành giảm 69% so với cùng kỳ.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 19.867 tỷ đồng, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng tăng so với cùng kỳ năm trước trong đó như: Nhóm đá quý, kim loại quý ước đạt 439 tỷ đồng, tăng 27%; nhóm hàng lương thực, thực phẩm ước đạt 6.549 tỷ đồng, tăng 13%; nhóm xăng dầu các loại ước đạt 3.392 tỷ đồng, tăng 8,2%; … Bên cạnh đó còn có mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm trước như: Nhóm ô tô con ước đạt 227 tỷ đồng, giảm 17%; nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục ước đạt 137 tỷ đồng, giảm 15,6%; nhóm hàng may mặc ước đạt 742 tỷ đồng, giảm 8,9%.
Vận tải
Tình hình hoạt động vận tải do dịch bệnh COVID-19 làm gián đoạn chuỗi cung ứng và lưu chuyển hàng hóa, luân chuyển hành khách giảm, sản xuất kinh doanh các ngành vận tải bị đình trệ.
Vận tải hành khách
Tháng 6/2020, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 128 tỷ đồng, tăng 2,7% so với tháng trước và giảm 5,2% so với cùng kỳ. Ước quý II năm 2020 doanh thu vận tải hành khách đạt 296 tỷ đồng, giảm 28% so với quý trước và giảm 27% so với cùng quý năm trước.Doanh thu vận tải hành khách 6 tháng đầu năm 2020 ước đạt 708 tỷ đồng, giảm 11% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 9,7 triệu người, giảm 10,4% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 1.074 triệu người.km so với cùng kỳ năm trước giảm 11%.
Vận tải hàng hoá
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 6/2020 ước đạt 323 tỷ đồng, tăng 2,2% so với tháng trước và giảm 0,5% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hàng hóa quý II năm 2020 ước đạt 889 tỷ đồng, giảm 14% so với quý trước và giảm 8% so cùng quý năm trước. Doanh thu vận tải hàng hóa 6 tháng đầu năm 2020 ước đạt 1.921 tỷ đồng, giảm 0,4% so với cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 12 triệu tấn, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 4.366 triệu tấn.km, giảm 0,03% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải
Doanh thu kho bãi dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 6/2020 tăng 4% so với cùng kỳ năm trước. Quý II tăng 6,5% so với cùng quý năm trước.Doanh thu kho bãi dịch vụ hỗ trợ vận tải 6 tháng đầu năm 2020 ước đạt 26 tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu bưu chính chuyển phát tháng 6/2020 tăng 51% so với cùng kỳ năm trước. Quý II tăng 52% so với cùng quý năm trước.Doanh thu bưu chính chuyển phát 6 tháng đầu năm 2020 ước đạt 2,2 tỷ đồng, tăng 80,3% so với cùng kỳ năm trước.
Tài chính , ngân hàng
Theo báo cáo của Sở Tài chính, tổng thu ngân sách Nhà nước ước tính 6 tháng năm 2020 đạt trên 10.044 tỷ đồng, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa ước đạt gần 2.921 tỷ đồng, giảm 11,6%; thu thuế xuất nhập khẩu ước đạt hơn 503 tỷ đồng, giảm 19,3%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt 3.742 tỷ đồng tăng 4,5%...
Tổng chi ngân sách địa phương thực hiện 6 tháng năm 2020 ước đạt trên 6.477 tỷ đồng, tăng 6% so với cùng kỳ; trong đó: chi phát triển kinh tế ước đạt trên 3.171 tỷ đồng, tăng 35%; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt trên 3.233 tỷ đồng, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thái Bình, hoạt động ngân hàng cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid – 19. Đến 30/6/2020, tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn ước đạt 79.780 tỷ đồng, tăng 8,5% so 31/12/2019. Về cơ cấu nguồn vốn huy động: Tiền gửi TCKT chiếm 6,2%, tiền gửi dân cư chiếm 93,8%; tiền gửi dưới 12 tháng chiếm 60,5%; tiền gửi bằng VND chiếm 98,7% tổng nguồn vốn huy động.
Để tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và phù hợp với diễn biến của nền kinh tế, ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh các mức lãi suất. Lãi suất cho vay bằng VND: lãi suất cho vay mới ngắn hạn VND 5 lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn; DNNVV; xuất khẩu; Công nghiệp hỗ trợ; DN ứng dụng công nghệ cao) giảm 1%/năm so với cuối năm 2019, ở mức 5%/năm (đối với các ngân hàng), 6%/năm (đối với các quỹ tín dụng nhân dân), lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6-9%/năm đối với ngắn hạn, 9-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2020 ước đạt 1.284 triệu USD, bằng 84% so với cùng kỳ năm trước
Xuất khẩu:
Tháng 6/2020, trị giá xuất khẩu ước đạt 118 triệu USD, tăng 11% so với tháng trước và giảm 20% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2020 ước đạt 660 triệu USD, giảm 12,1% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế nhà nước ước đạt 0,045 triệu USD, giảm 68,3% so với cùng kỳ năm trước. Kinh tế tư nhân ước đạt 364 triệu USD, giảm 13% so với cùng kỳ năm trước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 296 triệu USD, giảm 11% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước như: Sản phẩm gỗ (+82,2%); xăng dầu các loại (+41,3%); sản phẩm gốm, sứ (+38,1%); giấy và các sản phẩm từ giấy (+16,3%); hàng hóa khác (+13,4%). Còn lại là các mặt hàng giảm so với cùng kỳ như: Sắt thép (-69,3%); xơ sợi dệt (-45,5%); hàng dệt may (-13,8%).
Nhập khẩu
Trị giá nhập khẩu tháng 6/2020 ước đạt 122 triệu USD, tăng 27,6% so với tháng trước và giảm 10,5 % so với cùng kỳ năm trước. Trị giá nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2020 ước đạt 623 triệu USD, giảm 20% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo loại hình kinh tế: kinh tế tư nhân ước đạt 340 triệu USD, giảm 22% so với cùng kỳ năm trước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 284 triệu USD, giảm 17,4% so với cùng kỳ năm trước. 6 tháng đầu năm chỉ mặt hàng xăng dầu các loại tăng 4,2% so với cùng kỳ còn lại là các mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm trước như: Bông các loại (-55,7%); vải các loại (-26,7%); phế liệu sắt thép (-20%).
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 06 năm 2020 tăng 0,59% so với tháng trước; tăng 3,93% so với cùng tháng năm trước; so tháng 12 năm trước giảm 0,38%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 6 nhóm hàng có chỉ số giá tăng và 05 nhóm có chỉ số giá giảm so tháng 05; giá thực phẩm tiếp tục có xu hướng tăng chủ yếu tập chung ở giá thịt lợn; xăng dầu có sự điều chỉnh tăng giá nên tác động đến tăng chỉ số giá xăng dầu trong tháng, với việc áp dụng hỗ trợ giảm giá tiền điện cho khách hàng theo công văn 2698/BCT-ĐTDL tác động giảm chỉ số giá nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu chất đốt.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng năm 2020 tăng gần 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có chỉ số tăng cao như: “hàng ăn và dịch vụ ăn uống” tăng 15,5%; “thuốc và dịch vụ y tế” tăng 4,5%; “giáo dục” tăng gần 7,7%... Bên cạnh đó còn các nhóm hàng có chỉ số giảm so với cùng kỳ: nhóm “giao thông” giảm 8,9%; nhóm “may mặc, mũ nón, giày dép” giảm 2%.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Lao động và việc làm
Sở Lao động thương binh và xã hội phối hợp cùng các sở, ngành và các địa phương rà soát, tổng hợp biến động lao động - việc làm trong doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19; tổng hợp số lượng lao động nước ngoài thực hiện cách ly, phòng, chống Covid-19; tổng hợp hộ kinh doanh cá thể có doanh thu khai thuế dưới 100 triệu đồng/năm tạm dừng kinh doanh từ ngày 01/4/2020. Triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 đối với 4 nhóm đối tượng: Hộ kinh doanh cá thể; lao động chấm dứt hợp đồng lao động nhưng không đủ điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp; lao động không có giao kết hợp đồng; cho phép lao động gửi hồ sơ gián tiếp đề nghị hưởng bảo hiểm thất nghiệp và thông báo tình trạng việc làm qua điện tử. Đến ngày 08/6/2020, đã trình UBND tỉnh phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ cho 602 người lao động không có giao kết hợp đồng (trong đó: 588 người thuộc Thành phố Thái Bình và 14 người thuộc huyện Vũ Thư); 158 hộ kinh doanh (trong đó: 72 hộ kinh doanh thuộc Thành phố Thái Bình, 01 hộ kinh doanh thuộc huyện Quỳnh Phụ, 84 hộ kinh doanh thuộc huyện Kiến Xương, 01 hộ kinh doanh thuộc huyện Vũ Thư).
Ước 6 tháng đầu năm 2020, toàn tỉnh tạo việc làm mới cho 12.560 lao động (đạt 38,06% kế hoạch năm, bằng 72,1% so với cùng kỳ năm 2019), trong đó: việc làm tại địa phương 9.413 lao động, đi làm việc tại tỉnh ngoài 2.677 lao động và đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 470 lao động.
Trợ cấp xã hội:
Tổng số hộ nghèo toàn tỉnh năm 2019 là 17.022 hộ, tỷ lệ: 2,66% (giảm 0,69% so với năm 2018); tổng số hộ cận nghèo: 18.520 hộ, tỷ lệ: 2,89% (giảm 0,27% so với năm 2018.
Sáu tháng đầu năm, Sở Lao động thương binh và xã hội đã phối hợp với Sở Tài chính, Bảo hiểm xã hội tỉnh cấp 68.400 thẻ BHYT cho người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2020 với tổng kinh phí trên 58 tỷ đồng (trong đó, thẻ BHYT người nghèo 31.100 thẻ, thẻ BHYT cho người cận nghèo 37.300 thẻ). Phối hợp với Sở Tài chính cấp kinh phí hỗ trợ cho 16.949 hộ nghèo, với tổng kinh phí hơn 6.595 triệu đồng. Theo báo cáo của Ngân hàng chính sách xã hội đến 31/5/2020, đã có 344 hộ nghèo được vay vốn tín dụng với tổng kinh phí 15.418 triệu đồng; 447 hộ cận nghèo được vay vốn tín dụng với tổng kinh phí 19.919 triệu đồng.
Thực hiện Kế hoạch số 45/KH-UBND ngày 28/4/2020 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình về việc triển khai hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid – 19, Sở Lao động thương binh và xã hội đã phối hợp với các sở, ban ngành, địa phương rà soát, kiểm tra, xác minh, tổng hợp danh sách người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo trình Uỷ ban nhân dân tỉnh Quyết định phê duyệt danh sách và cấp kinh phí hỗ trợ người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh gặp khó khăn do đại dịch Covid – 19. Tổng số người nghèo, người cận nghèo được Chủ tịch UBND tỉnh quyết định phê duyệt danh sách và cấp kinh phí hỗ trợ là 53.525 người (17.051 người nghèo, 36.474 người cận nghèo), kinh phí phê duyệt hỗ trợ là 40,1 tỷ đồng (mức hỗ trợ 750.000đ/người/3 tháng).
Lĩnh vực người có công
Sáu tháng đầu năm 2020, các đơn vị chức năng đã tiếp nhận 2.419 hồ sơ giải quyết chế độ chính sách, đã giải quyết 2.170 hồ sơ (chiếm tỷ lệ 90%), đang trong thời gian giải quyết 324 hồ sơ, cụ thể: Giải quyết chế độ mai táng phí, trợ cấp một lần cho thân nhân người có công đã từ trần 1.379 thủ tục, đã giải quyết 1.350 thủ tục, 29 thủ tục đang trong thời gian giải quyết; giải quyết chế độ tuất hàng tháng khi người có công từ trần tiếp nhận 173 thủ tục, đã giải quyết 156 thủ tục, 20 thủ tục đang trong thời gian giải quyết; giải quyết chế độ đối với thân nhân liệt sĩ tiếp nhận 11 thủ tục, đã giải quyết 06 thủ tục, còn lại 05 thủ tục đang trong thời gian giải quyết; giải quyết giám định lại thương tật do vết thương tái phát cho 02 thủ tục; giải quyết hưởng chế độ ưu đãi đối với con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học cho 02 trường hợp; giải quyết hưởng chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, tiếp nhận 19 thủ tục, đã giải quyết 06, đang trong thời hạn giải quyết 13 thủ tuc; Sửa đổi thông tin cá nhân trong hồ sơ người có công 104 hồ sơ, đã giải quyết 83 thủ tục, còn lại đang trong thời hạn giải quyết; Di chuyển hồ sơ người có công với cách mạng 114 thủ tục, đã giải quyết 103 hồ sơ; Giải quyết chế độ trợ cấp thờ cúng liệt sĩ 341 thủ tục, đã giải quyết 299 hồ sơ; mua bảo hiểm y tế đối với người có công và thân nhân: 143 thủ tục, đã giải quyết 140 thủ tục, còn lại đang trong thời hạn giải quyết… Công tác quản lý hồ sơ lưu trữ hồ sơ người có công được thực hiện theo đúng quy định, đảm bảo việc cung cấp thông tin, hồ sơ kịp thời.
Thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về triển khai hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu UBND tỉnh quyết định phê duyệt danh sách và cấp kinh phí hỗ trợ cho 52.119 người có công và thân nhân của người có công với cách mạng, tổng kinh phí phê duyệt hỗ trợ là 78,2 tỷ đồng. Các huyện, thành phố đã thực hiện chi trả hỗ trợ cho 52.055 đối tượng (chiếm 99,87% tỷ lệ được phê duyệt) kinh phí hỗ trợ 78 tỷ đồng.
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
Tình hình dịch bệnh:
Bám sát sự chỉ đạo của Trung ương và tình hình địa phương, Sở Y tế tiếp tục tham mưu cho Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, Ban chỉ đạo liên ngành ban hành kịp thời các văn bản chỉ đạo phòng chống dịch bệnh COVID-19 như: Công điện điều chỉnh các biện pháp phòng, chống dịch; Quản lý người nhập cảnh; Điều tra, xử lý các trường hợp mắc COVID-19 nhập cảnh; Hỗ trợ người nước ngoài là nhà đầu tư, chuyên gia kỹ thuật, lao động tay nghề cao, nhà quản lý doanh nghiệp nhập cảnh để làm việc…
Công tác giám sát dịch COVID-19: Các đơn vị y tế thực hiện chế độ thường trực dịch 24/24; Duy trì công tác giám sát dịch bệnh tại cửa khẩu cảng Diêm Điền, đường tiểu ngạch, cơ sở y tế, cộng đồng; Đảm bảo công tác kiểm dịch y tế; Thực hiện rà soát, truy vết các đối tượng nguy cơ, giám sát ca bệnh truyền nhiễm tại cộng đồng cũng như tại các cơ sở điều trị. Duy trì chế độ thông tin báo cáo tình hình dịch bệnh, các biện pháp triển khai phòng, chống dịch hằng ngày về thường trực Ban chỉ đạo các cấp. Tổ chức sàng lọc chặt chẽ đảm bảo 100% các trường hợp nguy cơ được xét nghiệm. Tổng số đến ngày 07/6/2020 đã xét nghiệm 3.834 mẫu, trong đó thực hiện xét nghiệm tại tỉnh 2.950 mẫu, kết quả 30 trường hợp dương tính.
Về công tác cách ly đối tượng nguy cơ lây nhiễm COVID-19: Tiếp tục thực hiện công tác thường trực chuyên môn tại các trung tâm cách ly tập trung và thực hiện công tác chuyên môn đối với đối tượng cách ly tại nơi cư trú. Đến ngày 07/6/2020 đã thực hiện quản lý cách ly tập trung tại tỉnh, huyện là 1.742 người và cách ly tại nơi cư trú trên 1.000 trường hợp.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS
Các cơ sở điều trị thay thế nghiện chất bằng thuốc Methadone đảm bảo đủ nhân lực, thuốc; trong tháng tiếp nhận và điều trị bằng thuốc Methadone cho 1.342 người nghiện tại tất cả các cơ sở điều trị. Điều trị ARV cho 1.269 bệnh nhân, trong đó 878 (69,2%) bệnh nhân nhận thuốc ARV từ nguồn BHYT tại các phòng khám điều trị ngoại trú HIV, 22 trường hợp được tư vấn và xét nghiệm sàng lọc HIV trong đó khẳng định HIV (+) là 08 trường hợp; phơi nhiễm HIV là 02 trường hợp và 02 trường hợp được kê đơn thuốc điều trị.
Tính đến ngày 25/05/2020, toàn tỉnh có 2.153 người nhiễm HIV/AIDS còn sống, trong đó: 738 người nhiễm là phụ nữ (34,27%) và trẻ em là 37 (1,71%); lũy tích 1.460 bệnh nhân AIDS, trong tháng phát hiện 06 người nhiễm mới.
Hoạt động văn hoá - Thể thao
Các đơn vị chức năng đã thực hiện nghiêm chỉnh công tác phòng, chống dịch bệnh Covid - 19 trong các hoạt động lễ hội, tại di tích lịch sử văn hóa. Trong những ngày giãn cách toàn xã hội tất cả các di tích, cơ sở kinh doanh đều dừng hoạt động, treo biển báo dừng hoạt động và thực hiện việc phun thuốc khử trùng để phòng, chống dịch bệnh.
Sở Văn hóa thể thao và du lịch tổ chức triển lãm lưu động mừng Đảng, mừng Xuân tại 8 huyện, thành phố với 25 pano, 200 ảnh tư liệu và tranh cổ động. Phối hợp với Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Hưng Hà, huyện Quỳnh Phụ tổ chức triển lãm giới thiệu một cách tổng quan về quá trình thành lập Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Sáu tháng đầu năm, Trung tâm Văn hóa tỉnh đã tổ chức được 125 buổi chiếu phim tại Rạp Thống Nhất, 30 buổi chiếu phim lưu động, phục vụ 5.700 lượt người xem.
Lĩnh vực thể dục, thể thao
Trung tâm Văn hóa - Thể thao các huyện, thành phố đã tích cực, chủ động tổ chức các giải: Việt dã, Vật, Cầu lông, Bóng bàn, Bóng chuyền, Cờ tướng... (tiêu biểu như Vũ Thư, Thái Thụy, Tiền Hải, Kiến Xương); phối hợp với Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện thành phố tổ chức các giải Bóng đá Thiếu niên - Nhi đồng của huyện (tiêu biểu Hưng Hà, Vũ Thư, Đông Hưng, Tiền Hải, Quỳnh Phụ).
Sáu tháng đầu năm, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao đã mở 05 lớp bơi lặn, điền kinh, võ, cầu lông tại các huyện Tiền Hải, Kiến Xương, Đông Hưng, Quỳnh Phụ, Vũ Thư. Tổ chức tập huấn cho các vận động viên chuẩn bị tham gia thi đấu các giải theo kế hoạch.
Tình hình an toàn giao thông
Theo báo cáo của Ban an toàn giao thông từ ngày 15/05/2020 đến ngày 14/6/2020 trên địa bàn tỉnh xảy ra 2 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 1 người chết và 2 người người bị thương. Tính chung 6 tháng đầu năm toàn tỉnh xảy ra 27 vụ tai nạn giao thông làm 27 người chết và 12 người bị thương.
Tình hình cháy nổ
Trong tháng 6/2020, trên địa bàn tỉnh Thái Bình xảy ra 1 vụ cháy, không có người chết và bị thương. Sáu tháng năm 2020 xảy ra 5 vụ cháy trên toàn tỉnh, không có người chết và bị thương, thiệt hại về tài sản ước tính trên 5,46 tỷ đồng./.
|
|