Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng năm 2018

Thứ năm - 28/06/2018 03:34
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng năm 2018
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)
6 tháng đầu năm 2018, GRDP trên địa bàn tỉnh Thái Bình (giá so sánh 2010) dự kiến đạt trên 23.562 tỷ đồng, tăng 12,32% so với cùng kỳ năm 2017. Khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản ước đạt trên 6.349 tỷ đồng, tăng 3,60% so với cùng kỳ, đóng góp 1,05 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Khu vực công nghiệp và xây dựng ước đạt hơn 8.042 tỷ đồng, tăng 27,43% so với cùng kỳ, đóng góp 8,7 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng; trong đó: ngành công nghiệp tăng 35,68% (đóng góp 7,51 điểm phần trăm), ngành xây dựng tăng 11,52%. Khu vực dịch vụ ước đạt gần 7.793 tỷ đồng, tăng 7,46% so với cùng kỳ, đóng góp 2,58 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
 Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Nông nghiệp
Trồng trọt
Tổng diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân năm 2018 đạt 129.039 ha, tăng 281 ha (+0,2%) so với vụ Đông Xuân năm 2017, trong đó: diện tích gieo trồng vụ đông năm 2017-2018 đạt 36.351 ha, tăng 699 ha (+1,9%); diện tích vụ Xuân đạt 92.688 ha, giảm 418 ha giảm (-0,4%) so với năm trước.
Sản xuất cây lúa vụ xuân:
Cơ cấu giống lúa: giống lúa dài ngày có diện tích đạt 3.367ha, chiếm 4,3%; các giống lúa ngắn ngày có diện tích đạt 74.853 ha, chiếm 95,7% tổng diện tích; cơ cấu các giống lúa chất lượng gạo ngon đạt 23.622ha, chiếm 30,2% tổng diện tích lúa xuân; các giống lúa thuần có năng suất cao gồm: CN36, Q5, BC15, TB45, TB-1, TB225... chiếm 69,8%.
Đến thời điểm này, theo đánh giá sơ bộ từ các địa phương trên địa bàn tỉnh Thái Bình năm nay lúa xuân được mùa toàn diện, tính đến ngày 21/6/2018 diện tích lúa vụ xuân đã thu hoạch xong. Năng suất trung bình ước đạt khoảng 71,68 tạ/ha, cao hơn 0,03 tạ/ha so với vụ xuân năm 2017, đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng ngành trồng trọt trong 6 tháng đầu năm 2018.
Gieo trồng cây màu:
Diện tích gieo trồng một số cây vụ đông xuân năm nay giảm nhiều so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do hiệu quả kinh tế cao và ảnh hưởng của đợt mưa bão tháng 10 năm 2017 đúng vào thời điểm toàn tỉnh bước vào gieo trồng diện tích cây vụ đông đã ngập úng trên nhiều diện tích không gieo trồng và khắc phục được. Tồng diện tích gieo trồng ngô vụ đông xuân đạt  8.822 ha, giảm 1.468 ha (-13,7%), diện tích khoai lang dạt 2782ha (+10,3%); đậu tương đạt 1.110 ha (-24%); rau đậu đạt 31.071 ha (+10,9%).
Cây lâu năm:
Trong 6 tháng đầu năm tổng diện tích gieo trồng các loại cây lâu năm trên địa bàn tỉnh không có biến động lớn so với cùng kỳ năm trước, diện tích tăng 0,74% so với cùng kỳ nhưng cơ cấu các loại cây trồng có sự thay đổi để phù hợp với điều kiện canh tác của từng địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Chăn nuôi
Theo kết quả điều tra chăn nuôi 01/4/2018, hiện toàn tỉnh có 11 doanh nghiệp chăn nuôi (giảm 03 doanh nghiệp do đã chuyển về loại hình trang trại); 659 trang trại chăn nuôi (giảm 111 trang trại so với kỳ 01/4/2017 và 77 trang trại chăn nuôi so với kỳ điều tra 01/10/2017); số gia trại hiện có tại thời điểm điều tra là 7.347 gia trại, giảm 1.856 gia trại so với kỳ điểu tra 01/4/2017 và 819 gia trại so với kỳ điều tra 01/10/2017; số hộ chăn nuôi nhỏ có xu hướng giảm dần do không có lãi trong suốt thời gian dài vừa qua.
Đàn trâu bò phát triển khá ổn định trong 6 tháng đầu năm do không có dịch bệnh lớn xảy ra, thời tiết thuận lợi, không có hiện tượng rét đậm rét hạu ảnh hưởng đến việc chăn nuôi trâu bò như những năm trước. Đàn trâu bò hiện đang phát triển tốt cho hiệu quả kinh tế cao. Ước tính toàn tỉnh hiện có 5.908 con, tăng 4% so với cùng kỳ năm 2017; đàn bò ước tính 46.771 con tăng 9,4%. Việc phát triển chăn nuôi trâu bò tại tỉnh chủ yếu tại các hộ chăn nuôi để cung cấp cho nhu cầu của thị trường và phục vụ cho đời sống, sinh hoạt của người dân, chưa xuất hiện nhiều mô hình chăn nuôi tập trung như trang trại, doanh nghiệp lớn nên hiệu quả kinh tế mang lại vẫn chưa thực sự ổn định, bền vững.
Chăn nuôi lợn: Hiện nay giá lợn hơi toàn tỉnh đang có dấu hiệu tăng lên, dao động trung bình từ 45.000 – 49.500 đồng/kg; không chỉ giá lợn hơi xuất chuồng tăng, dịp này giá lợn giống cũng tăng cao, trung bình trên 1 triệu đồng/con. Với mức giá này người chăn nuôi lợn đã bắt đầu thu hồi được vốn và có lãi. Theo kết quả điều tra chăn nuôi thời điểm 01/4/2018 đàn lợn toàn tỉnh hiện có 968,1 nghìn con, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm 2017, sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng ước đạt 94,5 nghìn tấn, giảm trên 0,9% so với cùng kỳ năm 2017.
Theo số liệu điều tra chăn nuôi tại thời điểm 01/4/2018 tổng đàn gia cẩm của tỉnh đạt 12,37 triệu con, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm 2017. Sản lượng gia cầm hơi xuất chuồng 6 tháng ước đạt 22,7 nghìn tấn, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước; trứng gia cầm đạt 145,7 triệu quả, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2017. Hiện tại số lượng gia cầm trong những tháng này có thể giảm nhẹ do thời tiết nắng nóng kéo dài.
Lâm nghiệp
Tính đến tháng 6, toàn tình đã trồng mới dược 28,9ha rừng thuộc các xã huyện Tiền Hải đạt 26,2% so với cùng kỳ năm 2017, hiện còn 01 dự án trồng rừng đang trong quá trình hoàn thành. Nguyên nhân do một số dự án các thủ tục hành chính chưa hoàn thiện nên chưa được triển khai. Tổng diện tích rừng được bảo vệ là 4.032ha, tăng 0,9% so cùng kỳ.
Thủy sản
Khai thác
Tính đến thời điểm 01/5/2018 toàn tỉnh hiện có 1.153 tàu thuyền khai thác và dịch vụ với tổng công suất là 117.240CV, trong đó : tàu khai thác thủy sản là 1.028 tàu với tổng công suất 105.865 và 125 tầu dịch vụ đánh bắt thủy sản với tổng công suất 11375CV. Số lượng tàu có công suất nhỏ giảm dần, tàu có công suất 90CV trở lên tăng 14,9% (255 tàu) so với cùng kỳ 2017.
Trong những tháng đầu năm tình hình thời tiết diễn biến thuận lợi, sản lượng khai thác biển 6 tháng đầu năm đạt khá so với cùng kỳ, đạt gần 40 ngàn tấn, tăng trên 8,3% so cùng kỳ.
Nuôi trồng         
Diện tích nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh là 14.553 ha, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích nuôi ngao thương phẩm đạt 2.474 ha.
Sản lượng ngao ước tính 6 tháng đầu năm đạt 43,09 nghìn tấn tăng 10,6% so với cùng kỳ.
Nuôi tôm nước lợ 6 tháng đầu năm 2018 khá thuận lợi do thời tiết đang vào mùa mưa, độ mặn giảm giúp tôm phát triển tốt, giá bán ổn định và ở mức cao. Sản lượng tôm nước lợ trong 6 tháng ước tính đạt 341 tấn, tăng 5,5% so với cùng kỳ. Tôm sú đạt 190 tấn, tăng 3,2% ; tôm thẻ chân trắng đạt 85 tấn, tăng 10,3%. Tuy nhiên diện tích nuôi vẫn chưa lớn,quy mô còn nhỏ lẻ, rất cần cải tạo được vùng nuôi trồng thủy sản để có sản lượng lớn.
Sản lượng nuôi trồng nước ngọt trong 6 tháng đầu năm ước đạt 16.486 tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ, trong đó sản lượng cá đạt 16.219 tấn (sản lượng cá nuôi lồng bè đạt 821 tấn với tổng số lồng được thu hoạch đến thời điểm là 261 lồng, năng suất thu hoạch bình quânđạt 3,15 tấn/ lồng), tăng 0,8% sản lượng nuôi nước ngọt khác đạt 169 tấn, tăng 4,4%.
Tiến độ gieo trồng cây nông nghiệp đến ngày 21 tháng 6 năm 2018
 Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 6/2018 ước tính tăng  28,3% so với tháng trước và tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng năm 2018, IIP tăng trên 27,1%; trong đó: ngành khai khoáng giảm 6,8%; ngành chế biến, chế tạo tăng tăng 8%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng hơn 8 lần; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2017.
Trong 6 tháng năm 2018, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng cao so với cùng kỳ như: Amoni Nitorat (+73,8%); tôm đông lạnh (+49%); sứ vệ sinh tăng 2 lần; polyaxteal, polyete (+84,2%)... Bên cạnh đó cũng có một số sản phẩm có tốc độ giảm so với cùng kỳ như: bia đóng lon (- 22,1%); thức ăn cho gia súc (-19,9%); thức ăn cho gia cầm (-15,,6%)..
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tỉnh Thái Bình đến tháng 6/2018 tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số tồn kho ngành chế biến, chế tạo tháng 6/2018 ước tính tăng hơn 13%  so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có một số ngành chỉ số tồn kho cao như: sản xuất đồ uống (+41,8%); sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất (+57,3%); sản xuất xe có động cơ tăng hơn 7 lần so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/6/2018 tăng hơn 20,2% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó: Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,7%; doanh  nghiệp ngoài nhà nước tăng 28%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng hơn 13,4%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
 Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong tháng 5 năm 2018 đã cấp 99 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp với số vốn đăng ký đạt trên 401 tỷ đồng. Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động trong tháng  là: 08 doanh nghiệp; doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 04 doanh nghiệp, trong đó  thu hồi GCN ĐKKD do DN  giải thể là 04 doanh nghiệp
 Đầu tư
Tháng 6/2018, vốn đầu tư phát triển thuộc  nguồn vốn ngân sách Nhà nước do tỉnh quản lý ước đạt gần 302 tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước đạt gần 166 tỷ đồng, tăng 16,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện thực hiện đạt hơn 65,6 tỷ đồng, tăng 16,3%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã thực hiện gần 71 tỷ đồng, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính 6 tháng năm 2018 vốn đầu tư phát triển thuộc  nguồn vốn ngân sách Nhà nước do tỉnh quản lý đạt trên 1.147 tỷ đồng giảm 14,1% so với cùng kỳ.
Quý II năm 2018, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh ước đạt trên 10.238 tỷ đồng,tăng 29,8% so với cùng kỳ, trong đó: vốn Nhà nước ước đạt 3.821 tỷ đồng (+22,2%), vốn ngoài nhà nước ước đạt hơn 5.903 tỷ đồng(+30%), vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 513 tỷ đồng tăng hơn 2 lần so với cùng kỳ năm 2017.
Trong tháng 6/2018, lãnh đạo UBND tỉnh đã có buổi làm việc với nhóm các nhà đầu tư nước ngoài gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia về hợp tác đầu tư xây dựng nhà máy điện sử dụng nhiên liệu khí thiên nhiên LNG và các thiết bị nhập khẩu LNG – Thái Bình 3, công suất 2.000 MW với tổng vốn đầu tư khoảng 3,5 tỷ euro (100% vốn đầu tư nước ngoài).
            Tình hình thực hiện một số dự án:
Dự án nâng cấp đường 456, tổng vốn đầu tư hơn298 tỷ, ước thực hiện tháng 6 đạt hơn 10 tỷ đồng.
Dự án Thảm bê tông nhựa đường ĐH 76 huyện Quỳnh Phụ, tổng số vốn đầu tư hơn 52 tỷ, ước thực hiện tháng 6 đạt 7,2 tỷ đồng.
Dự án đường ĐH từ cầu Rều đi cầu Rèm, tổng vốn 11 tỷ, thực hiện tháng 6đạt 5 tỷ.
Dự án thảm bê tông nhựa đường ĐH 76 huyện Quỳnh Phụ, tổng vốn đầu tư hơn52tỷ, ước thực hiện tháng 6 đạt 5,2 tỷ đồng.
Dự án san lấp mặt bằng khu Nhân Cầu I giai đoạn 2 huyện Hưng Hà,tổng vốn đầu tư gần 33 tỷ, ước thực  hiện tháng 6 đạt 4,5 tỷ đồng.
Dự án đường kinh tế mới xã Bắc Sơn huyện Hưng Hà, vốn đầu tư 12,5 tỷ, dự kiến tháng 6 đạt 3 tỷ đồng.
Dự án đường ĐH đoạn từ đê Trà Lý đến ngã tư Đông Giang tổng vốn đầu tư 11tỷ đồng, thực hiện tháng 6 ước đạt 4 tỷ đồng.
Dự án xây dựng khẩn cấp cầu Đồng Lạc qua sông Tiên Hưng. vốn đầu tư hơn 37 tỷ, ước thực hiện tháng 6 đạt gần 4tỷ đồng.
Dự án nâng cấp đê Hữu Hóa giai đoạn II, vốn đầu tư hơn 80 tỷ dồng, ước thực hiện tháng 6 đạt 3 tỷ đồng.
Dự án công trình huyện đội Huyện Quỳnh Phụ vốn đầu tư 70 tỷ đồng ước thực hiện tháng 6 đạt 2,5 tỷ đồng.
 Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/06- 20/06/2018
Xây dựng
Hoạt động xây dựng tại địa bàn tỉnh Thái Bình 6 tháng năm 2018 ước đạt tốc độ tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm 2017, kết quả cụ thể như sau:
Giá trị xây dựng quý II năm 2018 (giá so sánh 2010) ước đạt trên 4.850 tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ.
Giá trị xây dựng 6 tháng 2018 (giá so sánh 2010) ước đạt trên 9.253 tỷ đồng tăng hơn 11,5% so với cùng kỳ năm 2017.
Giá trị sản xuất ngành xây dựng
Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước ước tính 6 tháng năm 2018 đạt trên gần 9.455 tỷ đồng, bằng 68,2% so với dự toán và tăng 1,9% so với cùng kỳ. Trong đó: thu nội địa ước đạt  2.928 tỷ đồng, giảm 3,1%; thu thuế xuất nhập khẩu ước đạt trên 732 tỷ đồng, tăng 38,3%; trợ cấp ngân sách trung ương ước đạt trên 3.460 tỷ, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng chi ngân sách địa phương ước tính 6 tháng năm 2018 đạt trên 6.367 tỷ đồng, bằng 54,6 so với dự toán và tăng 16,3% so với cùng kỳ; trong đó: chi phát triển kinh tế ước đạt trên 2.880 tỷ đồng, bằng 62,7% so với dự toán và tăng 29,9% so với cùng kỳ; chi tiêu dùng thường xuyên ước đạt trên 3.182 tỷ đồng, bằng 48,7% so với dự toán và tăng 8,3% so với cùng kỳ.
 Thương mại, giá cả, vận tải và dịch vụ
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tháng 6/2018 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt   3.288,4 tỷ đồng, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng trên 7,3 % so với cùng kỳ; trong đó: Kinh tế Nhà nước có mức tăng tương ứng 0,6% và 15,3%; kinh tế ngoài nhà nước tăng trưởng lần lượt là 0,5% và 7,2%.
Tháng 6/2018 tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt trên 2.853 tỷ đồng tăng hơn 0,6% so với tháng trước và tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: kinh tế Ngoài nhà nước tăng 0,7 so với tháng trước và tăng gần 7% so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 6/2018 doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước đạt hơn 257 tỷ đồng, tăng gần 9% so với cùng kỳ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa 6 tháng năm 2018 ước đạt 17.158 tỷ đồng, tăng             10,2% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo loại hình kinh tế: kinh tế nhà nước ước đạt hơn 267 tỷ đồng, tăng gần 15%; kinh tế ngoài Nhà nước ước đạt  16.890 tỷ đồng, tăng 10,2%. Chia theo nhóm ngành hàng: nhóm hàng lương thực, thực phẩm ước đạt 5.428 tỷ đồng (+8,4%); nhóm đồ dùng trang thiết bị gia đình ước đạt hơn 2.141 tỷ đồng (-1%); nhóm gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 2.410 tỷ đồng (+12,7%); nhóm xăng dầu ước đạt trên 236 tỷ đồng (-0,5%)...
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 6 tháng năm 2018 ước đạt                        19.780 tỷ đồng, tăng hơn 10,2% so với cùng kỳ. Trong đó: Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 17.158 tỷ đồng, tăng 10,2 %; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành đạt 1.533 tỷ đồng, tăng 11,2 %; doanh thu dịch vụ khác đạt trên 1.088 tỷ đồng tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2017.
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
 Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu:
Xuất khẩu tháng 6/2018 ước đạt 109,2 triệu USD, giảm hơn 3,6% so với cùng kỳ; trong đó: ngành kinh tế ngoài nhà nước ước đạt gần 65 triệu USD (-4,5%); kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt trên 43,2 triệu USD (-2,6%). Mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ như: hàng thủy sản tăng  hơn 2 lần; sản phẩm gỗ (+20%); sản phẩm xơ, sợi dệt các loại (+48,3%); sản phẩm sắt thép (+65,3%)... Tuy nhiên còn có những sản phẩm có giá trị xuất khẩu giảm cao như: hàng dệt may (-10,7%), máy vi tính, sản phẩm điện tử (-41,6%)...
6 tháng năm 2018 kim ngạch  xuất khẩu ước đạt 618,8 triệu USD tăng 7,2% so cùng kỳ; trong đó: ngành kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 341,3 triệu USD tăng hơn 8,7%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 274,1 triệu USD tăng gần 5,6% so với cùng kỳ năm 2017.
 Nhập khẩu:
Giá trị nhập khẩu tháng 6/2018 ước đạt 97,4 triệu USD tăng 4,7% so với cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 57 triệu USD (+34,6%); kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt hơn 39,7 triệu USD (-20,4%) so với cùng kỳ.
6 tháng năm 2018 kim ngạch nhập khẩu ước đạt 647,7 triệu USD tăng 19,5% so với cùng kỳ; trong đó ngành kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 372,7riệu USD(+36,2%); ngành kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 273 triệu USD (+2,5%) so với cùng kỳ.
Hàng hóa xuất nhập khẩu
 Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2018 tăng 0,42% so với tháng trước (khu vực thành thị tăng 0,31%; khu vực nông thôn tăng 0,43%); tăng 2,67% so với tháng 12 năm 2017 và tăng 5,28% so với cùng tháng năm trước. 11 nhóm hàng cấu thành CPI đều có chỉ số tăng và tương đương so với tháng trước như: nhóm “hàng ăn và dịch vụ ăn uống” tăng 0,7%; nhóm “Giao thông” tăng 0,69%.... Một số nguyên nhân tác động đến chỉ số giá tháng 6 tăng so với tháng trước như giá giá một số mặt hàng thiết yếu tăng (thực phẩm, chất đốt…); trong tháng 6 có đợt điều chỉnh giảm giá xăng vào ngày 23/6 (giá xăng 95 giảm 340 đồng/lít, xăng E5 giảm 330 đồng/lít, dầu hỏa giảm 230 đồng/lít) đã tác động đến chỉ số giá nhóm “Giao thông”.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng năm 2018 tăng 4,42% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có chỉ số tăng cao như: “nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng” tăng 10,5%; “giáo dục” tăng 4,3%; “thuốc và dịch vụ y tế” tăng 21,83%... tuy nhiên một số nhóm hàng chỉ số tiêu dùng lại giảm như: “Bưu chính viễn thông” giảm 0,39%...
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng, chỉ số giá đô la Mỹ tháng 06 năm 2018
 Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách
Tháng 6/2018, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 120 tỷ đồng tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 13,3% so với cùng kỳ; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt trên 1,6 triệu người tăng 1% so với tháng trước và tăng hơn 13,2% so với cùng kỳ; số lượt khách luân chuyển ước đạt hơn 197 triệu người.km, tăng 0,4% so với tháng trước, tăng hơn 23,1% so với cùng kỳ.
Doanh thu vận tải hành khách 6 tháng năm 2018 ước đạt hơn 715 tỷ đồng tăng 13,1%; số lượt khách vận chuyển ước đạt trên 9,9 triệu người tăng 15,9%; số lượt khách luân chuyển ước đạt 1.126 triệu hk.km tăng 18,1% so với cùng kỳ.
Vận tải hàng hóa
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 6/2018 ước đạt 312 tỷ đồng, tăng 4,6% so với tháng trước và tăng 11% so với cùng kỳ. Khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 1.768 nghìn tấn tăng hơn 2,2% so với tháng trước và 5% so với so với cùng kỳ. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt trên 714 triệu tấn.km,tăng hơn 2,3% so với tháng trước và tăng 5,2% so với cùng kỳ.
6 tháng năm 2018, doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.735 tỷ đồng tăng hơn 11,3%; khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 10.246 triệu tấn, tăng hơn 7,4%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 3.783 triệu tấn.km tăng gần 5,5% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hành khách và hàng hoá
 Một số tình hình xã hội
Lao động và việc làm:
Ước 6 tháng đầu năm toàn tỉnh tạo việc làm cho khoàng 17.200 người (đạt 52% kế hoạch năm); trong đó: tạo việc làm tại địa phương là : 12.800 lao động; số lao động đi làm việc tại tỉnh ngoài là 2.800 người; lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là 1.600 người.
Các đơn vị chức năng đã cấp giấy phép lao động cho 76 lao động là người nước ngoài làm việc tại Thái Bình. Tiếp nhận, giới thiệu cho 13 doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động về các huyện, thành phố để tuyển lao động của tỉnh đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho 2.115 trường hợp lao động bị thất nghiệp.
Ước 6 tháng đầu năm, có 6.870 lao động tham gia học nghề, trong đó trình độ cao đẳng 210 người, trình độ trung cấp 970 người, trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 03 tháng 5.690 người.
Lĩnh vực người có công:
6 tháng đầu năm 2018, chế độ trợ cấp, ưu đãi đối với người có công, chế độ về chăm sóc sức khỏe, chu cấp, ưu đãi giáo dục- đào tạo... được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời đến tay đối tượng theo đúng quy định của Nhà nước. Cụ thể: giải quyết cho 40 trường hợp thương binh đề nghị giám định do sót vết thương; 01 trường hợp đề nghị giám định do vết thương cũ tái phát; giải quyết chế độ trợ cấp đối với vợ hoặc chồng liệt sĩ đối với 24 trường hợp; giải quyết chế độ đối với người có hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt,tù đầy đối với 01 trường hợp; tiếp nhận giải quyết chế độ đối với con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học 25 trường hợp; trình Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội; cấp lại bằng Tổ quốc ghi công đối với 305 trường hợp; thẩm duyệt 1750 hồ sơ đề nghị cấp thẻ bảo hiểm y tế; giải quyết 25 trường hợp là thân nhân người có công được hưởng chế độ tuất hàng tháng khi người có công từ trần; giải quyết chế độ hỗ trợ cấp một lần mai táng phí và trợ cấp một lần đối với thân nhân người có công gồm 1320 trường hợp; di chuyển 153 hồ sơ người có công ra ngoài tỉnh, sao 1150 hồ sơ có công để trả các huyện, thành phố; rút 20110 hồ sơ NCC để giải quyết chế độ chính sách và phục vụ công tác thanh tra. Duyệt chế độ điều dưỡng tại gia đình và điều dưỡng tập trung của các huyện, thành phố năm 2018,trợ cấp dụng cụ chỉnh hình cho đối tượng người có công.
Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm
  Tình hình dịch bệnh:
 Trong tháng 6/2018, vào tối ngày 10/6/2018 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm tại gia đình nhà ông Cao Văn Hoan ở thôn Cốc xã Phú Châu huyện Đông Hưng. Đã có 50 người có biểu hiện ngộ độc,trong đó có 32 người phải nhập viện theo dõi và điều trị. Bước đầu xác định thức ăn gây ngộ độc nghi từ tiết canh lợn. Đến chiều ngày 13/6/2018 sức khỏe các bệnh nhân đã bình phục trở lại ổn định bình thường.
 Tình hình HIV/AIDS:
6 tháng đầu năm 2018 toàn tỉnh đã lập 73 hồ sơ đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Hiện có 02 trung tâm đang quản lý 317 người nghiện ma túy. Đội kiểm tra liên ngành 178 của tỉnh về phòng chống tệ nạn mại dâm đã tiến hành tổ chức kiểm tra 67 cơ sở kinh doanh dịch vụ đạt 50% chỉ tiêu kế hoạch đề ra năm 2018. 5 tháng đầu năm ghi nhận 19 ca nhiễm HIV mới, 14 người chuyển sang giai đoạn AIDS và 01 người tử vong do AIDS được báo cáo. Tổng số người nhiễm HIV/AIDS còn sống được quản lý là 3.308 người, trong đó có 853 phụ nữ (25.7%), số bệnh nhân AIDS hiện còn sống là 1.432 người trong 252/286 xã phường.
Duy trì tổ chức tiếp cận, điểu trị Methadone cho 1.331 người nghiện ma túy tại tất cả các  cơ sở điều trị ( Trung tâm PCHIV/AIDS: 181; TTYT Thành phố : 264; Đông Hưng: 120; Vũ Thư: 97; Quỳnh phụ: 172; Hưng Hà: 138; Tiền Hải: 159; Kiến xương: 84; Thái Thụy 116)
  Tổ chức điều trị ARV cho 1.185 bệnh nhân: đã tư vấn cho27 trường hợp và 10/27 trường hợp được cấp thuốc điều trị phơi nhiễm.
  Văn hoá - Thể thao
Lĩnh vực văn hóa.
Trong 6 tháng đầu năm 2018, Sở Văn hóa thể thao và Du lịch đã chỉ đạo các phòng, ban, đơn vị trực thuộc, Phòng Văn hóa và Thông tin, Trung tâm Văn hóa - Thể thao các huyện, thành phố tuyên truyền, vận động nhân dân tổ chức các hoạt động trong dịp nghỉ Tết, nghỉ lễ đảm bảo an toàn, vui tươi, lành mạnh, tiết kiệm, tích cực thực hiện nếp sống văn hóa, văn minh, giữ vững kỷ cương, an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh. Sáu tháng đầu năm, các đơn vị trong toàn ngành đã kẻ vẽ được 6.125 lượt khẩu hiệu băng rôn, biển tường, 364 cụm tranh, 3.782 panô, ápphích, sao nhân bản trên 2.000 đĩa tuyên truyền, tổ chức 149 l­­ượt xe tuyên truyền lưu động; tổ chức các chương trình văn hoá, văn nghệ, biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, triển lãm tranh ảnh, sách báo, chiếu phim, trưng bày hiện vật bảo tàng, các hoạt động giao hữu, thi đấu thể thao quần chúng, sinh hoạt câu lạc bộ ở cơ sở... Tạp chí Văn hóa, Thể thao và Du lịch xuất bản số Xuân, số đặc biệt tháng Tư chào mừng kỷ niệm 10 năm thành lập Sở với số lượng 1.200 cuốn và tham gia Hội báo Xuân. Cổng thông tin điện tử của Sở tăng cường lượng mục mừng Đảng, mừng Xuân, kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Nguyễn Đức Cảnh; 43 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; 132 năm ngày Quốc tế lao động 01/5; 128 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; 128 năm ngày thành lập tỉnh Thái Bình; 10 năm thành lập Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch…
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục phát triển và hoạt động nề nếp, việc đăng ký các danh hiệu văn hóa được triển khai kịp thời, đúng quy định; năm 2018 toàn tỉnh có 89,9% số gia đình đăng ký đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa”, 91,4% số thôn, tổ dân phố, khu phố đăng ký đạt danh hiệu “Thôn, tổ dân phố văn hóa”; 72,7% số xã đăng ký đạt danh hiệu “Xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới”; 94,7% số phường, thị trấn đăng ký đạt danh hiệu “Phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị”; 74,5% số cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đăng ký đạt danh hiệu “Cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp văn hóa”. Tổ chức triển khai kế hoạch công tác của Ban Chỉ đạo Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” và Ban Chỉ đạo công tác gia đình. Tham mưu tổ chức thành công Hội nghị giao ban cụm các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” năm 2018 tại Thái Bình.
Lĩnh vực thể dục, thể thao
Các hoạt động thể thao mừng Đảng, mừng Xuân diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trong tỉnh, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; tổ chức thi đấu các giải: Vật tự do, Bóng đá Nhi đồng toàn tỉnh, Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân; các huyện, thành phố đã tổ chức được 76 giải thi đấu thể thao cấp huyện, gần 1.100 giải thi đấu thể thao cấp xã.
Trường Năng khiếu Thể dục thể thao tổ chức học phù đạo các khối văn hóa cho học sinh đảm bảo chất lượng và xây dựng kế hoạch đánh giá tổng kết năm học 2017 -2018; tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lý vận động viên, duy trì việc giảng dạy, huấn luyện đảm bảo theo kế hoạch; mở 09 lớp năng khiếu tại các huyện, thành phố; thực hiện luân chuyển sang Trung tâm Huấn luyện Thể dục thể thao 10 vận động viên; luân chuyển về địa phương 09 vận động viên và tuyển chọn được 13 vận động viên bổ sung cho các lớp tập trung.
Trong 6 tháng đầu năm, Trung tâm Huấn luyện thể dục thể thao tổ chức tập huấn cho các vận động viên tham gia thi đấu 14 giải, trong đó có 10 giải quốc gia, 04 giải quốc tế đạt 41 huy chương các loại, gồm: 13 HCV, 16 HCB, 12 HCĐ (Trong đó có 06 HCV, 02 HCB giải quốc tế); Đội bóng chuyền MIKADO Thái Bình tham dự vòng I đội mạnh toàn quốc năm 2018 tại Hải Dương và giành vị trí thứ Ba bảng.
Tình hình cháy nổ
Trong 6 tháng năm 2018, trên địa bàn tỉnh Thái Bình xảy ra 16 vụ cháy thiệt hại trên 1 tỷ đồng và 01 người bị chết.
An toàn giao thông
Theo báo cáo của Ban an toàn giao thông từ ngày 16/5 đến ngày 15/6/2018 trên địa bàn  tỉnh xảy ra 03 vụ tai nạn giao thông đường bộ, có 03 người bị chết và 01 người bị thương. Ngoài ra trong tháng xảy ra 05 vụ va chạm giao thông làm 05 người bị thương nhẹ, thiệt hại ước tính 24 triệu đồng./.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây